“Phương Tây tập thể” do Hoa Kỳ lãnh đạo là một khối chính trị-quân sự và văn hóa, dựa trên một loạt các tuyên bố ‘gian lận’ và các giả định về ý thức hệ bất thường.
Đầu tiên trong số đó là “chúng ta” (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Liên minh Châu Âu – EU, …) được ‘ban phước’ khi có “nền dân chủ” làm cơ sở cho một hệ thống chính trị đặc biệt, trong đó mỗi công dân có thể thực hiện các quyền vốn có của mình, một cách đầy đủ nhất.
Đây là một lời nói dối. Nếu “dân chủ” có nghĩa là bất cứ điều gì, thì nó có nghĩa là bản sắc – hoặc rất gần gũi – về các giá trị và lợi ích của những người cai trị và những ‘bị trị’ (cho phép họ cai trị), của ‘một số ít người cai trị’ và số đông những bị trị, của những người chỉ huy hợp pháp và những người sẵn sàng tuân theo.
Định nghĩa này về dân chủ, đúng về mặt lịch sử và trí tuệ, không thể tách rời khỏi khái niệm bản sắc. Nó giả định sự đồng nhất về mặt dân tộc và tinh thần nền tảng của cộng đồng cụ thể thực hiện “dân chủ”.
Bản sắc là nền tảng của sự gắn kết xã hội và nhà nước. Nó là nền tảng của sự bình đẳng của công dân, được xác định bằng việc thuộc về một quốc gia – một trong vô số quốc gia được hình thành theo nhịp điệu của bài hát “Marseillaise” 2 thế kỷ trước, có lẽ vậy. Nhưng, trong trường hợp của Châu Âu, ‘bản sắc’ liên quan đến một cảm giác sâu sắc và lâu đời hơn ‘về tình yêu và cam kết lâu dài’.
Một quốc gia “dân chủ” không phải là, và không bao giờ có thể là, một hỗn hợp ngẫu nhiên của những cá nhân tự quyết định trung thành chủ yếu với bản thân độc đáo của họ, và có lẽ, với một số đề xuất ý thức hệ nhất thời, được cho là vĩnh viễn. Chắc chắn, nó không thể là một hỗn hợp ngẫu nhiên của những người tình cờ ở trong một khu vực địa lý nhất định tại một thời điểm nhất định.
Sự đồng nhất quốc gia – dựa trên nguồn gốc và truyền thống chung, trên ngôn ngữ chung và ý thức về vận mệnh chung – là điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện và tồn tại của một cộng đồng dân chủ khả thi, đó là điều kiện tiên quyết cho tính hợp pháp của hệ thống chính trị mà cộng đồng đó phát triển. Đó là định nghĩa có ý nghĩa duy nhất của “dân chủ”.
Mô hình này có 2 kẻ thù không đội trời chung. Một là cuộc tấn công của những kẻ đồng tính luyến ái – chuyển giới vào gia đình truyền thống, vốn là nền tảng cho sự sống còn về mặt sinh học của mọi quốc gia và sự liên tục của những ký ức tập thể.
Cái còn lại là việc áp đặt ‘nhập cư’ hàng loạt. Bản chất của chính trị, khả năng phân biệt giữa bạn và thù là không thể, khi bản thân sự phân biệt bị xem là phân biệt chủng tộc.
Những vũ khí hủy diệt hàng loạt về văn hóa này đã trở thành hai trụ cột tư tưởng không thể thương lượng và là công cụ phá hoại hợp pháp của giai cấp thống trị ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Chống lại bất kỳ bên nào đều bị cấm, chống lại cả hai đều là tội phạm trắng trợn.
Ở một đất nước bị người nhập cư nhấn chìm, “dân chủ” sụp đổ thành một phạm trù chính thức. Mỹ và Châu Âu đang bị ‘nhấn chìm’ bởi nhập cư ở mức độ ngang nhau.
Giai cấp thống trị hiểu rằng, chỉ thông qua bản sắc chung của người cai trị và người bị trị – “chúng ta, nhân dân” mới có thể tái xuất hiện như một thực thể có liên quan về mặt chính trị. Điều đó không được phép xảy ra. Do đó, “nền dân chủ của chúng ta” phủ nhận rằng, nhân dân và nhà nước có thể hoặc nên tồn tại trong sự hòa hợp. Trên thực tế, “nhân dân” không có chút đại diện nào, ngay cả về mặt khái niệm.
Kết quả là một bức biếm họa ‘kỳ cục’ của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cá nhân. Niềm tin của nó vào quyền tối cao của “quyền” phản ánh một sự trốn tránh trẻ con khỏi “chính trị”.
Sự khó chịu được thể hiện trong Đảng Dân chủ ở Hoa Kỳ và trong Đảng Xanh ở Đức. Sự mơ hồ về mặt đạo đức của hệ thống đã dẫn đến chủ nghĩa Satan – thông qua chủ nghĩa hư vô, như thể hiện tại lễ khai mạc Thế vận hội Olympic ở Paris 2024. Ở mọi nơi, nó được củng cố bằng sự giả tạo về tư pháp độc lập.
Áp dụng vào thực tế, hệ thống này được thiết kế để tạo ra những kết quả đã được định trước. “Dân chủ” chỉ là phương tiện để đạt được mục đích ý thức hệ, bị thao túng một cách vô liêm sỉ. Những kết quả không mong muốn – như chiến thắng của Trump năm 2016 – được xem là những sai lệch vốn không mang tính dân chủ.
Những vấn đề trong hệ thống bầu cử của Hoa Kỳ thì đã quá quen thuộc với chúng ta – vấn đề lá phiếu, chiến tranh pháp lý, ….
Ở Anh, ‘thủ đoạn này’ được tạo điều kiện thuận lợi bởi ‘hệ thống đa số phiếu bầu’, cho phép Đảng Lao động có được đa số ghế – ‘2/3 số ghế’ tại Hạ viện với 1/5 (20%) tổng số phiếu bầu. Mặt khác, Đảng Cải cách Vương quốc Anh của Nigel Farage, phe đối lập thực sự duy nhất tại Hạ viện mới, có hơn 14% số phiếu bầu nhưng chỉ có 4 thành viên trong Quốc hội.
Ở Pháp, Đảng Quốc đại theo chủ nghĩa chủ quyền của Marine Le Pen có thể giành được số phiếu phổ thông với hơn 37% số phiếu, nhưng cuối cùng lại đứng thứ ba trong Quốc hội.
Phía đông sông Rhine, Đảng một lựa chọn khác cho nước Đức (Alternative for Germany, AfD) có thể giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử cấp tiểu bang, mặc dù bị các phương tiện truyền thông chính thống (do các ông chủ tư bản chi phối) xem là quỷ dữ.
AfD sẽ luôn phải đối mặt với cùng một ‘bức tường lửa’ của chế độ, hệ thống đã khiến Le Pen và Farage không thể nắm quyền, và Donald Trump bị vô hiệu hóa hiệu quả, ngay cả khi bằng một phép màu nào đó, ông ta có thể quay trở lại Nhà Trắng vào tháng 1 năm 2025.
Liên minh Châu Âu (EU) là một kỳ công ấn tượng của kỹ thuật chính trị. Chiến lược của bộ máy Brussels là tước bỏ quyền tự chủ của các quốc gia thành viên, nhưng không chính thức thanh lý nó.
Quyền lực được chuyển giao cho EU, nhưng không có trách nhiệm giải trình, khả năng hiển thị và các hạn chế khác mà những người nắm giữ quyền lực ở các quốc gia truyền thống phải gánh chịu. Kết quả là ‘một quyền lực vô hình’ được duy trì trong trạng thái thay đổi liên tục, bởi những người điều hành nó.
Xem thêm: Thoát Khỏi Nền Dân Chủ Và Sự Thống Trị Của Mỹ?
Đặc điểm chính của ‘sinh vật hậu hiện đại’ đó là sự mơ hồ cố ý của nó. Ý nghĩa của chủ quyền bị làm mờ nhạt đến mức không liên quan. EU đã phát triển thành một ‘cộng đồng các giá trị’ văn hóa Marxist (chủ nghĩa Mác). Brussels đã trở thành trụ sở toàn cầu của một tầng lớp tinh hoa bị mất gốc, được nuôi dưỡng dựa trên di sản của Trường phái Frankfurt (phát triển lý thuyết về xã hội dựa trên chủ nghĩa Mác và phép biện chứng triết học của Hegel, cũng như các ngành khác, biên tập). Kết quả chính của sự biến đổi đó là các quốc gia thành viên EU không còn được phép kiểm soát chính sách nhập cư của họ nữa.
Ngay từ năm 1999, Hiệp ước Amsterdam đã chuyển giao thẩm quyền về các vấn đề nhập cư cho Brussels. Bốn năm sau, tại Hội nghị thượng đỉnh EU ở Thessaloniki (tháng 6 năm 2003), quyền của người nhập cư đã được mở rộng để bao gồm “quyền làm việc, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội, cư trú và tham gia vào đời sống xã hội”.
Tuy nhiên, các quyền tự do của Châu Âu không nên được hiểu là “đặc quyền độc quyền của công dân EU”.
Để ngăn chặn mối nguy hiểm này, EU yêu cầu tăng cường các biện pháp pháp lý chống lại “sự phân biệt đối xử, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại” ở tất cả các quốc gia thành viên. Kết quả là một cuộc tự sát dân số đang diễn ra và sự tự hủy hoại đạo đức của các quốc gia Châu Âu cũ.
Từ đống đổ nát của Châu Âu sau thảm kịch năm 1914, hai hệ tư tưởng hiện đại hóa, chủ nghĩa duy vật, phản truyền thống, ngộ đạo rất giống nhau đã xuất hiện: Chủ nghĩa Bolshevik và chủ nghĩa Quốc xã.
Xem thêm: Tại Sao Khái Niệm “Phát Triển” Như Là Một ‘Tôn Giáo’ Kiểu Mới
Truyền thông bị đầu sỏ (tư nhân) kiểm soát: Sự kết thúc của con người
Vào cuối thế kỷ 20, hoàng hôn của phương Tây đã sinh ra người anh em thứ ba, xảo quyệt hơn nhiều so với hai người kia. ‘Ông ta’ (phương Tây) bọc nắm đấm thép của mình trong một chiếc găng tay nhung màu cầu vồng. Ông ta thay thế ‘Bộ thông tin’ bằng phương tiện truyền thông bị chi phối bởi tập đoàn tư nhân và giáo dục nhà nước.
Giống như chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Bolshevik, chủ nghĩa toàn trị tân tự do có bản chất của chủ nghĩa tinh hoa: ‘Đức tin’ vào sứ mệnh do Chúa ban cho giới tinh hoa tiên phong là tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, thông qua việc thao túng tiến trình chính trị và nhồi sọ quần chúng.
‘Lời Chúa’ và ‘Thế giới’ bị tách biệt hoàn toàn. Tầm nhìn ý thức hệ tạo ra “thực tế” riêng của nó.
Những người nhận thông điệp được cho là không biết rằng, họ là nạn nhân của gian lận. Nếu không, họ sẽ bị tuyên bố là những kẻ đáng chê trách, những kẻ nổi loạn, những kẻ lệch lạc đáng bị truy tố hình sự.
Đạo đức không phải là chức năng của hành vi khách quan, mà hoàn toàn phụ thuộc vào tình huống, phụ thuộc vào vị trí của ‘tác nhân’ đó trên thang đánh giá chính trị và ý thức hệ.
Trong “phương Tây tập thể” ngày nay, các động lực hành động của cá nhân vẫn là cá nhân, nhưng chúng được hệ thống quyết định. Được tích hợp vào mạng lưới các mối quan hệ tạo nên thực tại của riêng họ, cá nhân không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ khuôn khổ của hệ thống.
Xem thêm: Chủ nghĩa tự do ngày ấy và bây giờ
Thiên nhiên như một thực tại khách quan không tồn tại!
Sự chuyển đổi của xã hội phương Tây thành hậu lịch sử có một đặc điểm chưa từng có: Văn hóa đang trở nên thừa thãi như một cơ chế duy trì động lực xã hội.
Sự giàu có về vật chất, thành công trong nghề nghiệp và sức khỏe thể chất là những thứ duy nhất. Những trải nghiệm cảm xúc và ý kiến cá nhân là những gánh nặng cố hữu, cố hữu của xã hội tiền công nghệ.
Câu hỏi về ý nghĩa bị loại trừ. Khái niệm về mục đích đã bị xóa bỏ. Văn hóa là một sản phẩm được ‘tiêu thụ’, không phải được ‘trải nghiệm’. Sự kết thúc của lịch sử, theo nghĩa biến xã hội thành một hệ thống xã hội công nghệ được điều chỉnh bởi thị trường do giới đầu sỏ kiểm soát, không chỉ biểu thị sự kết thúc của quốc gia mà còn là sự kết thúc của con người.
Hài kịch tàn khốc của “nền dân chủ của chúng ta” là kết quả của khoảng cách ngày càng lớn – giữa ý chí của người dân và chương trình nghị sự của giai cấp thống trị xuyên quốc gia quản lý tiến trình chính trị.
Giai cấp đó bác bỏ quan niệm rằng, con người – đặc biệt là con người phương Tây đương đại – không phải là một sinh vật tự cung tự cấp, rằng các kỹ năng bẩm sinh và có được của con người là thiếu sót, rằng không thể có sự biện minh nội tại nào cho cách sống của con người, dựa trên sự khuất phục thiên nhiên và phủ nhận đạo đức.
Đạo đức của một ‘chính thể’ phải dựa trên các khái niệm pháp lý vững chắc, không thể giới hạn ở những điều trừu tượng. Sự đổ vỡ bi thảm xảy ra với Cách mạng Pháp 1789 – một cuộc nổi loạn chống lại trật tự sáng tạo – dẫn đến sự thế tục hóa chính trị sau đó của Châu Âu và sự suy thoái đạo đức nghiêm trọng.
Kitô giáo (Thiên chúa giáo) ban đầu chỉ còn là một trong số nhiều tôn giáo, và trong thời đại của chúng ta phải chịu sự vu khống báng bổ trắng trợn.
“Nền dân chủ của chúng ta” đã chứng minh rằng, nó là một quá trình suy thoái có hệ thống của các hình thức cộng đồng, bản sắc và bối cảnh ý nghĩa truyền thống. Một trải nghiệm về thực tế sai lầm thống trị, trải nghiệm được thiết lập thông qua lý trí kinh tế và sự nhồi sọ ý thức hệ.
Carl Schmitt cho rằng, sự thối nát bắt đầu từ Descartes, người tập trung vào một quá trình chủ quan và nội tại, tư duy ích kỷ của chúng ta, thay vì thực tế của thế giới bên ngoài.
Cho dù điều đó có đúng hay không, thì không thể phủ nhận rằng, con người là một sinh vật sa ngã và nguy hiểm. Chỉ nhờ có Chúa mà cái ác vẫn chưa chiến thắng trên thế giới này. “Nền dân chủ của chúng ta” là kẻ thù. Nó không phủ nhận bản chất con người, như một số người bảo thủ thường tuyên bố. Nó nuôi dưỡng những nét cơ bản và đáng khinh bỉ nhất của con người.
Lợi ích của nước Mỹ là cơn thịnh nộ của Chúa phải trở nên rõ ràng, càng sớm càng tốt. Những lời ca ngợi về chủ nghĩa ngoại lệ của Mỹ và nước Mỹ như một quốc gia dẫn dắt phải chấm dứt. Giải pháp thay thế là chủ nghĩa toàn trị tự do không có chính trị thực sự – phù phiếm, suy đồi và xấu xí theo mọi nghĩa.
Hình minh họa: Ba tổng thống Mỹ. Ảnh FP
Tác giả: Tiến sĩ Srdja Trifkovic, biên tập viên phụ trách vấn đề đối ngoại của Chronicles, là tác giả của The Sword of the Prophet và Defeating Jihad.