Tác giả: Stephen Wertheim
Đôi khi, để giành chiến thắng sẽ đánh mất hòa bình!
Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ quyết định rằng, chính phủ Taliban ở Afghanistan cũng phạm tội đánh bom như những kẻ khủng bố al-Qaeda đã tấn công nước Mỹ. Và Mỹ đã dành 20 năm để cố gắng loại bỏ hoàn toàn quyền lực của Taliban, nhưng đã thất bại.
Câu chuyện tương tự đang xảy ra tại Ukraine. Kể từ khi Moscow đưa quân vào nước này vào ngày 24 tháng 02 năm 2022, đã có những cuộc tranh luận ở phương Tây về nguồn gốc của cuộc xung đột Nga – Ukraine, cuối cùng đã xác định được một lý do chính: Nga cầm vũ khí chỉ vì động cơ hiếu chiến và đế quốc, và chính sách của phương Tây, bao gồm cả việc mở rộng NATO bao vây Nga, hoàn toàn không liên quan gì đến nó.
Khi NATO cân nhắc các triển vọng về tư cách thành viên của Ukraine tại hội nghị thượng đỉnh ở Vilnius vào tháng 7 năm 2023, họ phải nhận ra rằng, cuộc xung đột có những nguyên nhân phức tạp hơn nhiều so với câu chuyện phổ biến này của phương Tây.
Không còn nghi ngờ gì nữa, ‘tình cảm’ đế quốc đã bắt rễ rất sâu ở Moscow. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, các nhà lãnh đạo Nga rất nhạy cảm với sự mở rộng của NATO.
Việc đưa Ukraine vào NATO – ngay cả với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và một số đảm bảo – sẽ không chấm dứt những nghi ngờ của họ. Vì vậy, cách tốt nhất để Ukraine có hòa bình là tự trang bị vũ khí thật tốt và nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài NATO.
Kể từ khi bắt đầu chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga, một loạt các quan chức đương nhiệm và cựu quan chức Hoa Kỳ đã lập luận rằng, như cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Nga Michael McFaul đã viết trên Twitter, “cuộc xung đột này không liên quan gì đến việc mở rộng NATO”.
Theo ý kiến của họ, Moscow tiến hành chủ yếu từ động cơ nội bộ. Trong mọi trường hợp, hành động của phương Tây đóng một vai trò rất nhỏ trong tất cả những điều này.
Thật khó để tưởng tượng rằng, các nhà sử học trong tương lai sẽ tuyên bố cùng một niềm tin đơn giản: Hoạt động quân sự đặc biệt của Nga ở Ukraine – quốc gia lớn thứ 2 ở Châu Âu, kéo theo chi phí và rủi ro rất lớn cho Putin.
Trước khi đến Kiev, Putin là nhà lãnh đạo của Nga trong hơn 2 thập kỷ, hướng về phương Tây, và sau đó rời xa nó. Việc không nhận ra vai trò của Hoa Kỳ và Châu Âu trong cuộc xung đột là do cái mà các nhà tâm lý học gọi là ‘lỗi quy kết cơ bản’: Xu hướng quy kết hành vi của người khác là do nội tâm của họ, hơn là do hoàn cảnh mà họ gặp phải.
Nhiều bằng chứng cho thấy sự mở rộng của NATO trong những năm gần đây đã làm dấy lên sự bất bình của Moscow và làm tăng tính dễ bị tổn thương của Kiev. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nga muốn NATO, trước đây là một liên minh quân sự chống Liên Xô, giữ nguyên vị trí cũ và mất đi ý nghĩa.
Thay vào đó, các cường quốc phương Tây đã nâng NATO lên mức – trở công cụ chính của an ninh Châu Âu và bắt đầu một quá trình mở rộng vô thời hạn về phía đông, đến biên giới Nga.
Mặc dù, như cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright đã lưu ý, người Nga “kịch liệt phản đối điều đó”, Hoa Kỳ và các đồng minh của họ vẫn tiếp tục, hy vọng rằng sự khác biệt sẽ được giải quyết theo thời gian.
Thay vào đó, thời gian có tác dụng ngược lại. Mặc dù NATO luôn nói rằng họ không trực tiếp chống lại bất kỳ quốc gia nào, nhưng họ đã tích cực chào đón các thành viên mới, những người rõ ràng – và có thể hiểu được – đang tìm kiếm sự bảo vệ từ NATO.
Về phần mình, Moscow chưa bao giờ ngừng tuyên bố về “vùng ảnh hưởng” của mình trong không gian hậu Xô Viết, như tổng thống Boris Yeltsin từng thẳng thừng tuyên bố vào năm 1995.
Mặc dù Ukraine ban đầu không muốn trở thành thành viên NATO sau khi giành được độc lập vào năm 1991, nhưng chính sách của nước này đã thay đổi vào đầu những năm 2000, đặc biệt là sau sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2004. Cũng trong năm đó, NATO kết nạp thêm 7 thành viên mới, trong đó có 3 quốc gia vùng Baltic, khiến Ukraine trở thành một số ít quốc gia bị kẹp giữa liên minh phương Tây và Nga.
Khi các cuộc xung đột nội bộ của Ukraine đan xen với sự cạnh tranh đang trỗi dậy giữa Đông và Tây, Ukraine bắt đầu tích cực tìm kiếm tư cách thành viên NATO và tìm thấy một người bảo trợ mạnh mẽ là tổng thống George W. Bush.
Trong thời gian chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh NATO năm 2008, Bush muốn trao cho Ukraine và Gruzia một con đường chính thức để gia nhập liên minh, được gọi là Kế hoạch hành động tư cách thành viên. Trước cuộc họp, William Burns, người đứng đầu CIA hiện tại, lúc đó là đại sứ tại Nga, đã cảnh báo rằng, một động thái như vậy sẽ gây ra hậu quả chết người.
“Việc Ukraine gia nhập NATO là điểm sáng nhất trong tất cả ‘lằn ranh đỏ’ đối với giới tinh hoa Nga (và không chỉ đối với Putin)”, Burns báo cáo từ Moscow.
Ông đặc biệt lưu ý rằng, nỗ lực đưa Ukraine vào liên minh “sẽ tạo ra mảnh đất màu mỡ cho sự can thiệp của Nga vào các vấn đề của Crimea và miền đông Ukraine”. Các quan chức tình báo cấp cao khác như Fiona Hill cũng đưa ra những cảnh báo tương tự.
Nhưng, không hề sợ hãi trước điều này, Bush đã kiên quyết theo đuổi chính sách của mình, thậm chí vấp phải sự phản đối rộng rãi từ các đồng minh Châu Âu của Mỹ.
Cuối cùng, họ đã đi đến một thỏa hiệp: NATO tuyên bố rằng Ukraine và Gruzia sẽ “trở thành thành viên” của liên minh, nhưng không đưa ra cách thức và khung thời gian thực sự cho việc gia nhập của họ.
Đó là một quyết định kỳ lạ, khiêu khích Moscow, nhưng không bảo vệ Kiev. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo NATO đã ngoan cố lặp lại điều này, kể cả tại hội nghị thượng đỉnh cuối cùng được tổ chức trước chiến dịch đặc biệt của Nga vào năm 2022.
Xem thêm: Cuộc Đảo Chính Maidan – Hiểu Về Cuộc Xung Đột Ukraine
Ukraine ngừng tìm kiếm tư cách thành viên NATO vào năm 2010 khi Viktor Yanukovych thân Nga lên làm tổng thống. Sau cuộc cách mạng Maidan buộc Yanukovych phải bỏ chạy năm 2014, Putin lo ngại giới lãnh đạo mới của Ukraine sẽ có lập trường thân phương Tây nên lập tức sáp nhập Crimea.
Putin đã cố gắng sử dụng điều này để đạt được đòn bẩy đối với Kiev, nhưng không nhận được bất kỳ nhượng bộ nào. Trên thực tế, tình hình với Crimea chỉ đẩy người Ukraine về phía tây.
Vào năm 2019, Kiev có nguyện vọng trở thành thành viên NATO trong hiến pháp nhà nước. Năm 2022, thất bại trong việc ngăn chặn Ukraine rời khỏi quỹ đạo của Nga, Putin đã ra lệnh tiến quân đến Kiev.
Bất kể cuộc xung đột quân sự này kết thúc như thế nào, rất có khả năng nó sẽ lặp lại. Kể từ năm 2014, NATO đã cho thấy họ không muốn gây chiến với Moscow vì Kiev.
Nếu Ukraine gia nhập NATO, “Hoa Kỳ và phần còn lại của NATO sẽ phải quyết định có nên tiến hành một “cuộc chiến tranh thế giới thứ 3”, như tổng thống Biden đã gọi một cách khéo léo là đối đầu trực tiếp với Moscow, hay từ chối phòng thủ. Kiev, do đó, làm tổn hại đến an ninh của toàn bộ liên minh NATO.
Bất kỳ công thức nào cho hòa bình lâu dài đều phải tính đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan khó khăn này.
Khi các cuộc đàm phán diễn ra, tổng thống Volodymyr Zelensky nên quay lại đề xuất của Ukraine, được cho là đã đưa ra vào tháng 3 năm 2022, nhằm chấm dứt nỗ lực trở thành thành viên NATO.
Thay vào đó, sau cuộc xung đột, Kiev, như Zelensky gợi ý, nên áp dụng “mô hình của Israel”, tạo ra một đội quân tiền phương lớn và một cơ sở công nghiệp – quân sự hùng mạnh với sự hỗ trợ rộng rãi từ bên ngoài.
Về phần mình, EU cần tạo điều kiện để Ukraine nhanh chóng gia nhập khối – nhằm thu hút đầu tư cho công cuộc tái thiết đất nước.
Điều này sẽ đi kèm với các đảm bảo an ninh của chính EU. Theo đó, Hoa Kỳ và các quốc gia ngoài EU khác có thể bổ sung lời hứa cung cấp hỗ trợ vật chất cho Ukraine trong trường hợp xảy ra cuộc tấn công thứ 2.
Tuy nhiên, như bạn đã biết, không có “viên đạn bạc”, tức là các giải pháp lý tưởng. Nga có khả năng phản đối việc Ukraine gia nhập EU, cũng như bất kỳ thể chế phương Tây nào khác.
Tuy nhiên, Nga thà chấp nhận tư cách thành viên của Ukraine trong EU hơn là trong NATO do Mỹ lãnh đạo. Và sẽ tốt hơn nếu các quốc gia EU đi đầu trong việc giúp đỡ Kiev sau cuộc xung đột, để không khiến Putin có lý do để tin rằng, người Mỹ đang giật dây và bao vây đất nước của ông.
Ukraine cần một tầm nhìn về chiến thắng thực sự – tương lai thịnh vượng, dân chủ và an toàn của họ – chứ không phải là một chiến thắng ‘Pyrrhic’ với giấc mơ của NATO và các cuộc tấn công tiếp theo của Nga.
Đã đến lúc chuyển sang một giai đoạn tranh luận công khai ít nặng về tuyên truyền hơn, xem xét các bài học của quá khứ – để định hình tương lai.
Ảnh minh họa: Zelensky và Biden. Nguồn: Aawsat