UPI – Viên ngọc thanh toán kỹ thuật số của Ấn Độ

Tôi thường nói về thị trường tài chính, nhưng lần này tôi muốn khám phá một chủ đề mà tôi quan tâm – Fintech/Hệ thống thanh toán. Ấn Độ, quốc gia này chiếm gần 45% thanh toán kỹ thuật số

UPI. Ảnh Razorpay

Tôi thường nói về thị trường tài chính, nhưng lần này tôi muốn khám phá một chủ đề mà tôi quan tâm – Fintech/Hệ thống thanh toán.

Ấn Độ, quốc gia này chiếm gần 45% thanh toán kỹ thuật số theo thời gian thực toàn cầu và đã có mức tăng trưởng vượt bậc trong vài năm qua.

Điều đó nói lên rằng, cho dù bạn có ở Ấn Độ hay không, thì bạn cũng nên biết về quá trình phát triển hệ thống thanh toán kỹ thuật số này, đặc biệt khi nó mở rộng trên toàn cầu và thay đổi cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Ấn Độ đã có một số hệ thống thanh toán nổi tiếng chính là ‘giao diện thanh toán hợp nhất’ (UPI). Nó là một viên ngọc quý không thể tranh cãi trong nỗ lực đổi mới kỹ thuật số của nước này.

Trong nhiều thập kỷ, Ấn Độ là nền kinh tế thiên về tiền mặt và điều này cũng dễ hiểu vì việc áp dụng thanh toán kỹ thuật số đòi hỏi nhiều thứ – hơn chỉ là cơ sở hạ tầng thanh toán.

Nhưng khi hệ thống UPI ra mắt vào năm 2016 – một số bước phát triển khác trong những năm trước đó, đã tình cờ mang lại cho nó một bệ phóng hoàn hảo. Chỉ cần đặt mọi thứ vào bối cảnh, số lượng giao dịch qua UPI hiện là hơn 12 tỷ mỗi tháng, tức là gần 4600 giao dịch chuyển tiền theo thời gian thực mỗi giây!

Kết hợp các khối xây dựng – bộ ba JAM!

Năm 2010, chương trình nhận dạng kỹ thuật số “Aadhar” của Ấn Độ đã được triển khai – hơn 95% người Ấn Độ hiện sở hữu số Aadhar (mã cá nhân – ID), điều này đã làm thay đổi việc xác thực danh tính.

Vào năm 2012, eKYC (know your client, xác thực người dùng hay khách hàng) đã được ra mắt – khả năng sử dụng Aadhar cho eKYC đã giảm chi phí nhận dạng cho các ngân hàng từ ~20 USD xuống 0,15 USD cho mỗi giao dịch.

Cuối năm 2014, Pradhan Mantri Jan Dhan Yojna được triển khai – một chương trình nhằm mục đích chuyển đổi khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, với ít nhất một tài khoản ngân hàng cho mỗi hộ gia đình.

Chỉ trong 6 tháng đầu năm, hơn 100 triệu tài khoản ngân hàng đã được mở và cho đến nay đã có hơn 500 triệu tài khoản được mở theo chương trình này, trong đó khoảng 67% ở khu vực nông thôn hoặc bán thành thị.

Và song song đó, Ấn Độ có sự tăng trưởng mạnh mẽ về viễn thông di động – hiện có 1,2 tỷ người dùng điện thoại di động với gần 650 triệu người dùng điện thoại thông minh (tăng hơn gấp đôi so với năm 2016).

Tổng hợp lại, bộ ba JAM này (Jan Dhan, Aadhar, Mobile) đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng cơ bản đã sẵn sàng để Ấn Độ thực hiện một bước tiến có ý nghĩa trong không gian thanh toán kỹ thuật số.

Chúng ta có thể xác định người dùng, chúng ta có tài khoản ngân hàng để chuyển ‘đến/từ’, chúng ta có quyền truy cập kỹ thuật số qua điện thoại di động.

Xem thêm: Thanh toán kỹ thuật số và tương lai của ví điện tử

Vậy UPI là gì và nó cung cấp những gì?

Ấn Độ có nhiều hệ thống thanh toán – RTGS (thanh toán tổng hợp theo thời gian thực), NEFT (chuyển tiền điện tử quốc gia), IMPS (dịch vụ thanh toán ngay lập tức), …, mỗi hệ thống đều có những lợi ích và hạn chế riêng.

Năm 2016, Công ty thanh toán quốc gia Ấn Độ (NPCI), đã ra mắt UPI – một hệ thống thanh toán đơn giản, thân thiện với người dùng, theo thời gian thực và có thể tương tác.

– Nó hỗ trợ chuyển tiền cũng như thanh toán cho người bán, tức là cả thanh toán ngang hàng (P2P, peer to peer) và thanh toán trực tiếp cho người bán (P2M, peer to merchant).

– Nó hỗ trợ cả giao dịch ‘đẩy và kéo’, tức là bạn có thể thực hiện (gửi – send) cũng như yêu cầu (thu – collect) thanh toán.

– Nó hỗ trợ chuyển thời gian thực và có sẵn 24x7x365.

– Nó có khả năng tương tác – người dùng có thể sử dụng UPI từ bất kỳ ứng dụng có sẵn nào và chuyển tiền qua nhiều tài khoản ngân hàng.

– Nó là một phần của cơ sở hạ tầng công cộng kỹ thuật số (DPI) của Ấn Độ và do đó theo quy định của chính phủ hiện tại, người mua và người bán không phải trả phí khi truy cập UPI.

So với các hệ thống trước đây, UPI đã cố gắng mang lại trải nghiệm người dùng vượt trội dưới dạng giao diện chung và thông qua khả năng tương tác của nó, tức là các thông số kỹ thuật API (giao diện lập trình ứng dụng), tiêu chuẩn đảm bảo có thể sử dụng bất kỳ ứng dụng nào để chuyển và nhận tiền bất kể ngân hàng hoặc nhà cung cấp thanh toán khác nhau (Fintech).

Người A có thể sử dụng ứng dụng PhonePe bằng tài khoản Ngân hàng ICICI và có thể dễ dàng chuyển tiền cho người B sử dụng Google Pay và có tài khoản Ngân hàng SBI.

Xem thêm: Ra mắt ngân hàng mở: Cách mạng hóa tài chính ở Ấn Độ

Hệ sinh thái UPI và luồng giao dịch

UPI là một ví dụ điển hình về chủ đề ngân hàng mở – nó sử dụng cơ sở hạ tầng thanh toán hiện có (IMPS) cho chương trình phụ trợ nhưng có kiến ​​trúc mở, trên đó nhiều nhà cung cấp có thể mang đến các giải pháp đổi mới thông qua ứng dụng của họ (Google Pay, PhonePe, …).

Dưới đây là các bên liên quan chính của hệ sinh thái UPI – trong khi PSP (nhà cung cấp dịch vụ thanh toán)/ứng dụng hướng tới khách hàng, tất cả hoạt động liên lạc giữa các ngân hàng và các bên liên quan khác đều được thực hiện thông qua NPCI (Công ty thanh toán quốc gia Ấn Độ): Khuôn khổ 3 lớp.

Lớp 1: Người dùng với nhà cung cấp dịch vụ thanh toán/ứng dụng của bên thứ 3.

Lớp 2: NPCI (Công ty thanh toán quốc gia Ấn Độ) – trung tâm điều phối chính.

Lớp 3: Ngân hàng phát hành thực hiện các chức năng ngân hàng cốt lõi như tín dụng/ghi nợ số dư (nhận tiền gửi).

Cách dễ nhất để hiểu sự tương tác giữa hệ sinh thái là xem xét quy trình giao dịch UPI.

UPI hoạt động như thế nào. Ảnh GeeksforGeeks
UPI hoạt động như thế nào. Ảnh GeeksforGeeks

Xác thực người dùng được đơn giản hóa

Trước khi đi sâu vào vấn đề này, hãy xem xác thực người dùng khác nhau như thế nào trong UPI.

Hãy nhớ cách chúng ta thực hiện chuyển khoản ngân hàng? Chúng ta cần đăng nhập vào trang web của ngân hàng bằng thông tin đăng nhập của mình, nhập chi tiết tài khoản người thụ hưởng (với IFSC – IFSC là viết tắt của mã hệ thống tài chính Ấn Độ. Ngân hàng trung ương Ấn Độ – RBI sử dụng mã IFSC để chuyển tiền điện tử giữa các ngân hàng, biên tập) để chuyển tiền và số tiền thậm chí có thể không phản ánh theo thời gian thực. UPI đơn giản hóa việc xác thực người dùng cho cả người gửi và người nhận.

Để tăng cường bảo mật, UPI sử dụng xác thực 2 yếu tố (2FA, 2-factor authentication) cho người gửi – lớp xác thực đầu tiên được thực hiện bởi ứng dụng PSP (payment service providers) – nhà cung cấp dịch vụ thanh toán (ví dụ, Google Pay), thường dựa trên yếu tố sở hữu/kiến thức như mật khẩu di động, nhật ký – chi tiết, ….

Lớp xác thực thứ hai được thực hiện bởi hệ thống UPI bằng sinh trắc học hoặc ghim UPI (được thiết lập trong quá trình tạo tài khoản).

UPI cũng giới thiệu một yếu tố nhận dạng mới gọi là VPA (virtual payment address – địa chỉ thanh toán ảo) tức là địa chỉ ‘trỏ’ đến người dùng và tài khoản ngân hàng được liên kết. Ví dụ: John@axl là VPA được tạo cho người dùng trên PhonePe cho tài khoản của anh ta được liên kết với Axis Bank.

Định dạng này tương tự như định dạng của địa chỉ email – username@pspidentifier. Không giống như ngân hàng trực tuyến, chúng ta có thể thanh toán cho người nhận dựa trên số điện thoại di động của mình hoặc VPA, điều này giúp loại bỏ nhu cầu về thông tin tài khoản ngân hàng bí mật và rườm rà.

Xem thêm: Khởi nghiệp Fintech: Ứng dụng thanh toán thẻ tín dụng – CRED Ấn Độ

Luồng giao dịch UPI

Khi khách hàng bắt đầu giao dịch trên ứng dụng – bước đầu tiên là xác thực người gửi được thực hiện bởi ứng dụng (mật khẩu/đăng nhập). Người gửi có thể chuyển tiền tới ‘số VPA’ (virtual payment address – địa chỉ thanh toán ảo) hoặc số điện thoại di động của người nhận.

Yêu cầu này được gửi đến NPCI (Công ty thanh toán quốc gia Ấn Độ) thông qua PSP (nhà cung cấp dịch vụ thanh toán) của người trả tiền (ứng dụng di động + ngân hàng thanh toán kết nối ứng dụng này với NPCI và lớp ngân hàng).

(1). Nếu VPA của người nhận được sử dụng thì tùy thuộc vào VPA (cho bạn biết nó được liên kết với ứng dụng/ngân hàng nào) – bộ chuyển đổi NPCI sẽ liên hệ với PSP (nhà cung cấp dịch vụ thanh toán)/ngân hàng thụ hưởng của người nhận để lấy chi tiết tài khoản.

(2). Nếu số điện thoại di động của người nhận được sử dụng thì NPCI có thể lấy thông tin chi tiết từ kho lưu trữ trung tâm của nó.

Khi cả thông tin chi tiết về người gửi và người nhận đều có sẵn cho NPCI, NPCI sẽ bắt đầu yêu cầu ghi nợ cho ngân hàng của người gửi và sau đó là yêu cầu ghi có cho ngân hàng của người nhận.

Và cuối cùng, gửi thông báo cho cả người gửi và người nhận thông qua PSP (nhà cung cấp dịch vụ thanh toán) tương ứng của họ.

Một điều quan trọng cần lưu ý ở đây là không có hoạt động chuyển tiền thực tế nào giữa ngân hàng của người gửi/người nhận diễn ra ở giai đoạn này – chỉ có số dư tài khoản của họ được cập nhật.

Việc thanh toán giữa các ngân hàng diễn ra trên cơ sở ‘hoãn lại’ và ‘ròng’’ (nhiều giao dịch) ở giai đoạn sau theo hướng dẫn thanh toán của NPCI.

Xem thêm: Hiểu về Fintech và các lĩnh vực thuộc Fintech?

Tương lai của UPI

Theo quan điểm của tôi, có 3 ngành dọc chính mà chúng ta cần suy ngẫm cho tương lai của UPI.

(1). Tiếp tục đổi mới về mặt ứng dụng và trường hợp sử dụng – trong vài năm qua, NPCI đã nỗ lực mở rộng các trường hợp sử dụng bằng cách giới thiệu các tính năng như UPI123, UPI Autopay, UPI LiteX, …

Các tính năng này nhằm mục đích cho phép sử dụng UPI trên điện thoại mà không cần Internet, khả năng lên lịch thanh toán sau, …

Một trong những phát triển mới nhất trong lĩnh vực này là thanh toán đàm thoại – giải pháp này tích hợp sức mạnh của AI với UPI để cho phép người dùng giao dịch thông qua đầu vào dựa trên giọng nói.

(2). Tính bền vững trong hệ sinh thái UPI – như đã thảo luận trước đó, do UPI là một phần của ‘cơ sở hạ tầng công cộng kỹ thuật số’ nên hiện tại khách hàng hoặc người bán không bị tính bất kỳ khoản phí nào khi sử dụng dịch vụ UPI – quy định của chính phủ Ấn Độ.

Hiện tại, Ấn Độ sử dụng ngân sách để trợ cấp/hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ trong hệ sinh thái UPI.

Theo ước tính của Ngân hàng trung ương Ấn Độ (được công bố trong một tài liệu thảo luận vào năm 2022), trung bình 0,25% giá trị giao dịch là chi phí cho mỗi giao dịch do các bên liên quan khác nhau gánh chịu.

Đã có một cuộc tranh luận đang diễn ra rằng, sự hỗ trợ UPI nên đến từ ngân hàng, chứ không phải đến từ PSP/ứng dụng của bên thứ 3, những người đang nỗ lực liên tục đổi mới.

Giai đoạn đầu của sự tăng trưởng theo cấp số nhân này đã chứng kiến ​​sự tham gia tích cực của một số bên tham gia – tuy nhiên, sự phát triển tiếp theo có thể cần các biện pháp khuyến khích tốt hơn, đặc biệt đối với các khoản thanh toán cho người bán.

(3). Hội nhập toàn cầu – NPCI đang nỗ lực tích hợp UPI với các hệ thống thanh toán toàn cầu để cho phép các giao dịch xuyên biên giới. Chúng ta đã có liên kết với Singapore, Pháp, Oman, Sri Lanka, ….

Điều này có thể sẽ tiếp tục mở rộng – mặc dù có những cân nhắc như sự khác biệt về quy định, kiểm soát an ninh và gian lận, biến động tỷ giá hối đoái sẽ thúc đẩy tốc độ.

Tóm lại, có nhiều khía cạnh trong quá trình phát triển này, chẳng hạn như tích hợp thẻ tín dụng/ghi nợ và ví điện tử, …, những điều này sẽ tiếp tục biến đổi phạm vi mở rộng của UPI.

Sáng kiến ​​đồng Rupee kỹ thuật số có thể là một cơn gió thuận lợi khác cho sự phát triển của thanh toán kỹ thuật số. Đồng thời, có những thách thức như mở rộng vào nông thôn, cơ cấu chi phí phù hợp, … sẽ định hình sự phát triển của UPI.

Hình minh họa: UPI. Ảnh Razorpay

Tác giả: Mamta Bansal

Nguồn: Mamta Bansal – medium.com – Ấn Độ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang