Tác giả: Rebecca Price
Cộng đồng khoa học công nhận rằng, việc kết hợp các phương pháp điều trị khác nhau đối với các tình trạng sức khỏe tâm thần có thể tạo ra lợi ích lớn hơn so với các liệu pháp riêng lẻ.
Với tư cách là nhà tâm lý học lâm sàng và nhà nghiên cứu khoa học thần kinh, tôi đã nỗ lực tích hợp những hiểu biết sâu sắc từ cả hai lĩnh vực, để mở rộng các lựa chọn điều trị cho những người mắc chứng trầm cảm, lo lắng và các tình trạng tâm thần liên quan.
Việc thiết kế một kế hoạch điều trị cẩn thận và liều lượng của cả liệu pháp sinh học và liệu pháp hành vi, có thể mang lại lợi ích cho mọi người theo những cách mới, mà không một phương pháp nào có thể tự mình đạt được.
Lo lắng và trầm cảm là những tình trạng sức khỏe tâm thần phổ biến nhất trên toàn thế giới. Trên toàn cầu, có khoảng 280 triệu người bị trầm cảm và cứ 3 người thì có 1 người đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán chứng rối loạn lo âu vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ.
Có rất nhiều lựa chọn điều trị hiệu quả cho cả hai tình trạng, bao gồm dùng thuốc, trị liệu tâm lý, thay đổi lối sống và kích thích thần kinh.
Các bác sĩ và nhà trị liệu khuyên bệnh nhân đang tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, nên thử nhiều phương pháp cùng một lúc, chẳng hạn như dùng thuốc và trị liệu.
Điều này dựa trên ý tưởng rằng, nếu họ phản ứng tốt với bất kỳ phương pháp điều trị nào được chỉ định, họ sẽ nhận được ‘lợi ích ròng’ nhanh hơn hoặc mạnh hơn so với việc thực hiện tuần tự từng phương pháp điều trị.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đã nghiên cứu từng cách tiếp cận, một cách riêng biệt. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào việc so sánh từng phương pháp điều trị riêng lẻ với một biện pháp kiểm soát, chẳng hạn như thuốc giả dược hoặc liệu pháp tâm lý nào đó.
Tính dẻo thần kinh và cách điều trị
Những tiến bộ gần đây trong hiểu biết khoa học về trầm cảm, lo âu và các tình trạng liên quan đến căng thẳng tinh thần cho thấy những thay đổi và suy giảm khả năng ‘dẻo dai’ thần kinh là những tác nhân quan trọng.
Tính dẻo thần kinh đề cập đến khả năng của não trong việc điều chỉnh linh hoạt để đáp ứng với môi trường luôn thay đổi – đó là một thành phần quan trọng của việc học tập.
Trong các nghiên cứu trên động vật, sự thiếu hụt liên quan đến tính dẻo dai thần kinh được xem là những thay đổi thần kinh, chẳng hạn như giảm số lượng khớp thần kinh hoặc giảm điểm tiếp xúc giữa các tế bào thần kinh sau căng thẳng mãn tính.
Những thay đổi này có thể liên quan đến các mô hình tâm thần và các triệu chứng trầm cảm và lo lắng ở người, chẳng hạn như khi bệnh nhân cho biết khả năng suy nghĩ, cảm nhận và hành động linh hoạt bị giảm sút.
Chúng cũng có thể liên quan đến việc suy nghĩ, ghi nhớ và diễn giải thông tin theo cách có xu hướng thiên về tiêu cực.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiều phương pháp điều trị sinh học hiệu quả, bao gồm dùng thuốc và kích thích thần kinh, có thể tăng cường hoặc thay đổi tính dẻo dai của thần kinh.
Một số thay đổi lối sống như tập thể dục thường xuyên có thể có tác dụng tương tự. Các nhà khoa học xem đây là chìa khóa để giảm các triệu chứng. Thật không may, các triệu chứng thường quay trở lại khi ngừng điều trị.
Sự tái phát đặc biệt rõ ràng đối với thuốc. Đối với cả thuốc chống trầm cảm và thuốc chống lo âu cũ và mới, tỷ lệ tái phát bắt đầu tăng ngay sau khi bệnh nhân ngừng điều trị.
Ngược lại, các phương pháp điều trị hành vi như trị liệu tâm lý sẽ đưa ra những kỹ năng và thói quen mới có thể có tác dụng lâu dài hơn.
Lợi ích vẫn tiếp tục, ngay cả sau khi giai đoạn điều trị căng thẳng nhất kết thúc. Các cuộc gặp thường xuyên với bác sĩ trị liệu trong vài tháng có thể giúp nhiều bệnh nhân học cách đối phó với các triệu chứng tiêu cực và hoàn cảnh sống theo những cách mới.
Nhưng việc học như vậy phụ thuộc vào khả năng linh hoạt thần kinh để hình thành và duy trì những cách thức mới hữu ích trong não.
Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, việc tăng cường hoặc điều chỉnh tính linh hoạt bằng biện pháp can thiệp sinh học như thuốc có thể không chỉ làm giảm các triệu chứng mà còn có thể mang lại cơ hội cho các biện pháp can thiệp hành vi như liệu pháp tâm lý hiệu quả hơn.
Các biện pháp can thiệp dựa trên học tập như liệu pháp nhận thức-hành vi hoặc liệu pháp tiếp xúc, nếu được tính toán đúng thời điểm, có thể khai thác khả năng linh hoạt thần kinh nâng cao, mà các biện pháp can thiệp sinh học gây ra và cải thiện kết quả lâu dài.
Các phương pháp xử lý sinh học biến đổi một tập hợp các con đường được kết nối thưa thớt – chỉ bao gồm một số con đường quen thuộc thể hiện những suy nghĩ, nỗi sợ hãi và thói quen vô ích – thành một mạng lưới dày đặc hơn, gồm những con đường được trải nhựa mới, nối liền với nhau.
Các liệu pháp điều trị hành vi có thể được ví như việc lái xe liên tục trên ‘một tập hợp con’ cụ thể của những con đường mới, dẫn đến những quan điểm cân bằng hơn về bản thân và thế giới xung quanh bạn, học hỏi chúng cho đến khi bạn có thể lái xe một cách dễ dàng mà không cần GPS.
Điều này đảm bảo rằng những con đường quen thuộc hiện nay sẽ sẵn sàng cho bạn trong tương lai và bảo vệ bạn khỏi sự tái phát của lo lắng và trầm cảm.
Xem thêm: Suy Nghĩ Tiêu Cực: Hại Não Và Hủy Hoại Sức Khỏe
Phối hợp trong điều trị kết hợp
Việc thiết kế các phương pháp điều trị kết hợp để phát huy rõ ràng sức mạnh tổng hợp là tương đối mới, và ngày càng có nhiều bằng chứng ủng hộ điều đó.
Đầu tiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, D-cycloserine, một loại kháng sinh dùng để điều trị bệnh lao, có thể làm cho liệu pháp tiếp xúc với tình trạng lo âu hiệu quả hơn bằng cách giúp bệnh nhân học cách dập tắt nỗi sợ hãi.
D-cycloserine cũng có thể tăng cường tác dụng chống trầm cảm của một loại kích thích thần kinh gọi là kích thích ‘từ xuyên sọ’, kích thích các tế bào thần kinh bằng từ trường.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng, việc kết hợp kích thích thần kinh với các phương pháp nhận thức-hành vi như liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT) hoặc đào tạo kiểm soát nhận thức có thể giúp giảm trầm cảm và lo lắng lâu dài hơn.
Tương tự như vậy, ketamine liều thấp, một loại thuốc dùng trong gây mê toàn thân, có tác dụng chống trầm cảm nhanh.
Một nghiên cứu mà nhóm của tôi đã thực hiện đã phát hiện ra rằng, các bài tập hàng ngày trên máy tính từ 30 đến 40 phút trong 4 ngày sau một liều ketamine duy nhất, đã dẫn đến thời gian tác dụng chống trầm cảm tăng gấp 9 lần – giảm triệu chứng 90 ngày – so với chỉ sử dụng ketamine, dẫn đến giảm triệu chứng trong 10 ngày.
Các nhà nghiên cứu đang khám phá tiềm năng của thuốc ảo giác để điều trị nhiều tình trạng sức khỏe tâm thần.
Cuối cùng, ngày càng có nhiều người quan tâm đến việc sử dụng các loại thuốc khác có đặc tính gây ảo giác để hỗ trợ trị liệu tâm lý.
Lợi ích điều trị của việc sử dụng các liệu pháp hỗ trợ ảo giác này dưới sự giám sát y tế là do tác dụng tăng cường thần kinh nhanh chóng và thay đổi ý thức của các loại thuốc như psilocybin và MDMA.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, những tác động ngắn hạn này thúc đẩy những hiểu biết và quan điểm mới mà các nhà trị liệu tâm lý có thể giúp bệnh nhân hòa nhập vào thế giới quan lâu dài của họ.
Có tiềm năng lớn trong việc kết hợp các phương pháp điều trị theo hướng dẫn của khoa học thần kinh. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là, các phương pháp điều trị khác nhau đôi khi có thể chống lại nhau, làm giảm lợi ích lâu dài của liệu pháp tâm lý đơn thuần.
Ví dụ, một nghiên cứu về chứng rối loạn hoảng sợ cho thấy những bệnh nhân học các kỹ thuật trị liệu tâm lý trong khi dùng thuốc chống lo âu có nguy cơ tái phát cao hơn sau khi ngừng sử dụng, so với những người chỉ dùng liệu pháp tâm lý.
Cần có các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế cẩn thận và theo dõi lâu dài để hiểu đầy đủ cách kết hợp sinh học và hành vi để phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả, dễ tiếp cận, an toàn và lâu dài.
Rebecca Price, phó giáo sư tâm thần học và tâm lý học, Đại học Pittsburgh