Sự Thống Trị Của Đồng Đô La Diễn Ra Như Thế Nào?

Đô la hóa được hình thành vào năm 1944 để Mỹ kiểm soát thế giới thời hậu chiến. Hệ thống này đã hoạt động trong nhiều thập kỷ

Đô la hóa. Ảnh Pixabay

Nhà kinh tế học Norbert Gaillard cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Le Monde, việc phi đô la hóa trong thương mại quốc tế là một dấu hiệu cho thấy sự phân mảnh của thế giới, với các từ như “nhà nước” và “đất nước của tôi” một lần nữa trở nên quan trọng.

Norbert Gaillard xem xét lịch sử thống trị của đồng tiền Mỹ và giải thích tại sao đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc, ngay cả khi giá trị của nó đang tăng lên, cũng không thể thay thế đồng đô la.

Đầu tiên, về thời đại đã qua: Quá trình đô la hóa thương mại quốc tế bắt đầu như thế nào?

Norbert Gaillard: Giữa 2 cuộc chiến tranh, sức mạnh của đồng đô la bắt đầu tăng lên nhờ Hoa Kỳ là chủ nợ quốc tế hàng đầu, và cũng do ‘New York’ thay thế một phần ‘London’ làm trung tâm tài chính và thay thế gần như hoàn toàn Paris.

Sau thế chiến 2, đô la hóa trở thành một trong những “quy tắc mới” được hệ thống Bretton Woods đưa ra, bắt đầu từ năm 1944.

Công thức “đồng đô la đáng tin cậy như vàng” thịnh hành vào thời điểm đó và nhiều người tin vào câu nói này.

Họ quyết định: Hệ thống tiền tệ quốc tế được hỗ trợ bởi vàng, nhưng đồng đô la là tiền tệ cơ bản. Các nước công nghiệp hóa lớn, ngoại trừ nước Mỹ, mà đặc biệt là các nước nghèo đang phát triển, đều phải có đô la để mua vàng.

Cơ sở của đô la hóa (nghĩa là việc sử dụng đồng đô la làm phương tiện thanh toán không chỉ của người Mỹ mà còn của người dân ở hầu hết các quốc gia trên thế giới) là một hệ thống vẫn khó thách thức.

Nó dựa vào Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ vẫn là cường quốc kinh tế, thương mại và tài chính hàng đầu.

Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế, hình thành từ các hiệp định Bretton Woods nói trên, chủ yếu sử dụng đồng đô la.

Năm 1971, thế giới bàng hoàng trước một tin xấu: Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố chấm dứt khả năng chuyển đổi đô la thành vàng. Kể từ đó, khả năng Hoa Kỳ duy trì sự thống trị của hệ thống tiền tệ của mình đã bị ‘nghi ngờ’.

Nhưng điều bị ‘nghi ngờ’ đã xảy ra? Năm 1973, đồng đô la bị mất giá. Mọi người đều nghĩ rằng “sự kết thúc của đồng đô la đã đến”. Nhưng thay thế nó bằng cái gì?

Bằng đồng Rúp – không, bằng đồng Franc – không, bằng đồng Bảng Anh – không, đồng tiền của Anh lúc đó đã suy yếu. Tất cả những gì còn lại là đồng Mác Đức và đồng Yên Nhật. Và có lẽ đồng Franc Thụy Sĩ. Nhưng ‘tiết kiệm’ của họ quá nhỏ.

Nhiều năm trôi qua, cuối cùng mọi người cũng hiểu nó là gì – một hệ thống tiền tệ mới. Đây là một điều mà mọi thứ thay đổi bên ngoài, nhưng trong thực tế vẫn giữ nguyên.

Tỷ giá hối đoái thả nổi, nhưng đồng đô la vẫn được coi là đồng tiền chính. Khi mọi người vay tiền, cuối cùng họ cũng đang vay từ New York, giao dịch đồng đô la vẫn tiếp tục. Một loại tiền tệ không còn mạnh như trước nhưng phù hợp với tất cả mọi người.

Quá trình phi đô la hóa ngoại hối bắt đầu từ khi nào?

Vấn đề của những năm 1980 là cuộc khủng hoảng do các quyết định của Chủ tịch Ngân hàng trung ương Mỹ, Paul Volcker gây ra. Để chống lạm phát, ông quyết định tăng lãi suất thêm vài trăm điểm cơ bản (100 điểm cơ bản là một phần trăm) trong một năm.

Con số này là rất nhiều, tỷ giá hối đoái của đồng đô la đã tăng lên và tính sẵn có của nó đã giảm đi.

Đồng đô la sau đó đạt đỉnh điểm vào năm 1980-1982, điều này giải thích cho “thập kỷ mất mát” nổi tiếng và cuộc khủng hoảng nợ năm 1982.

Điều này là do các nước đang phát triển được cho là tái cấp vốn bằng đô la đã không thể thực hiện được, vì giá trị của đồng đô la quá cao. Và khi các nước đang phát triển vay mượn để trả các khoản nợ trước đây, mức lãi suất rất cao đối với họ.

Tình trạng này đã làm chậm lại đáng kể sự phát triển của các nước ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và Châu Á.

Kể từ thời điểm đó, chúng ta nhận ra sự cần thiết phải có đồng tiền quốc gia của riêng mình. Các quốc gia đã kiểm soát được lạm phát từ những năm 1980 hoặc 1990 dần dần tăng khả năng vay bằng đồng tiền của mình và do đó giảm sự phụ thuộc vào đồng đô la.

Đây là trường hợp của Brazil, Ấn Độ và thậm chí cả Nga. Trung Quốc, một số nước châu Á khác, Hàn Quốc và Thái Lan đã đối phó với nhiệm vụ này một cách ‘mẫu mực’.

Một số ít quốc gia có thể kiềm chế lạm phát và đồng thời đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (ví dụ, những “con hổ” Châu Á) đã thành công trong việc phi đô la hóa.

Và những quốc gia gặp khó khăn với lạm phát và vẫn quá phụ thuộc vào Hoa Kỳ vì mục đích thương mại đã không thể bắt đầu phi đô la hóa nền kinh tế của họ (ví dụ Mexico).

Tức là quá trình phi đô la hóa đã không bắt đầu vào ngày hôm qua. Liệu sự tăng tốc của nó có thể được giải thích bởi mối lo ngại của một số quốc gia đối mặt với ‘thanh kiếm trừng phạt’ của ‘công lý’ Mỹ.

Ngày nay có khoảng 40 chương trình trừng phạt của Mỹ. 20 đến 25 quốc gia được áp dụng 2 hoặc 3 chương trình. Ví dụ như Trung Quốc, dù người Mỹ vẫn có quan hệ thương mại rất lớn với nước này nhưng cũng phải chịu lệnh trừng phạt.

Nhưng các biện pháp trừng phạt cứng rắn nhất liên quan đến Belarus và đặc biệt là Nga, cũng như Iran và Triều Tiên, những quốc gia đứng đầu danh sách đen.

Các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia này là một trong những yếu tố góp phần phi đô la hóa. Đúng vậy, bản thân người Mỹ cố gắng không chú ý đến điều này: Họ nhìn thấy mặt khác của đồng tiền – họ nói, các quốc gia bất hảo đang bị loại khỏi hệ thống đồng đô la (phi đô la hóa), và đây là một hình phạt dành cho họ.

Tại Hoa Kỳ, đã có một cuộc tranh luận về việc phi đô la hóa trong nhiều năm. Các nhà kinh tế và chính trị gia rất nghiêm túc tin rằng, nền kinh tế thế giới cần phải phi đô la hóa.

Ngược lại, những người khác lại cho rằng, tình trạng đô la hóa cần phải tiếp tục. Theo tôi, quá trình khử đô la sẽ tiếp tục trong trung và dài hạn.

Nguyên nhân sẽ là mối đe dọa cho nhiều quốc gia một ngày nào đó sẽ bị Mỹ đưa vào danh sách đen.

Trung Quốc hiểu điều này. Hiện đã có ý kiến ​​​​rộng rãi rằng người Mỹ có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt thậm chí còn cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, như trường hợp của Nga.

Hóa ra là các biện pháp trừng phạt của Mỹ đang có tác dụng chống lại người Mỹ: Nó kích thích một “cuộc tháo chạy” khỏi đồng tiền Mỹ.

Xem thêm: BRICS Cất Cánh, Khi G7 Lụi Tàn Trong Bóng Tối

Phi đô la hóa không chỉ là vấn đề tiền tệ, nó chủ yếu là vấn đề chính trị và chủ quyền. Liệu 6 quốc gia mới gia nhập BRICS có thể đẩy nhanh quá trình này không?

Tổ chức BRICS được thành lập cách đây gần 15 năm để thách thức sự lãnh đạo của Mỹ. Thực tế là khả năng lãnh đạo như vậy không tồn tại mãi mãi và có thể bị thách thức trở nên rõ ràng, sau sự phá sản của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers và sự sụp đổ của các cơ quan xếp hạng. Nhưng đối với tôi, việc tạo ra một loại tiền tệ duy nhất dành riêng cho BRICS, như đồng Euro, dường như là điều khó xảy ra.

Mặt khác, tham vọng của BRICS là tiếp tục tăng cường giao dịch với nhau bằng đồng tiền riêng của họ. Con đường đi đến điều này sẽ còn dài. Tuy nhiên, thương mại nội khối BRICS cần được xử lý một cách thận trọng.

Kể từ năm 2001, ít nhất 80% mức tăng thương mại giữa các quốc gia BRICS khác nhau đến từ hoạt động thương mại của các thành viên khác nhau trong tổ chức này với Trung Quốc.

Đúng là mọi việc đã tiến triển đôi chút giữa Nam Phi và Ấn Độ. Ngược lại, thương mại giữa Ấn Độ và Nga cũng như giữa Brazil và Nam Phi lại trì trệ. Quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Ấn Độ rất hạn chế.

Do đó, nhìn vào số liệu thống kê, bạn cần hiểu: Đây không phải toàn bộ tổ chức BRICS, mà chính Trung Quốc đang tăng cường thương mại với 4 nước thành viên còn lại.

Ưu điểm của hệ thống BRICS là khả năng giao dịch bằng đồng tiền riêng của họ và khôi phục chủ quyền tiền tệ. Nợ đô la có vấn đề, đặc biệt là khi đồng đô la đang tăng giá.

Vì vậy, BRICS có cơ hội không giao dịch bằng đô la, mà giao dịch với đồng Nhân Dân Tệ.

Không nhất thiết là đồng Nhân Dân Tệ, mà tiền tệ nội địa của các quốc gia. Bởi vì nếu về lâu dài Argentina, Brazil và các nước BRICS khác phải thay thế đồng đô la bằng đồng Nhân Dân Tệ, họ sẽ chuyển từ sự phụ thuộc này sang sự phụ thuộc khác.

Về vấn đề này, người ta có thể giải thích thế nào về việc 6 quốc gia mới gia nhập BRICS?

Ba trong số đó – Argentina, Ai Cập và Ethiopia – có nền kinh tế khá yếu và phụ thuộc vào Trung Quốc.

Ba nước còn lại – Iran, Saudi Arabia và UAE (Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất) – là những nước xuất khẩu dầu.

Điều này có nghĩa là chúng ta nên kỳ vọng rằng, một ngày nào đó các giao dịch thương mại của 3 quốc gia này sẽ được thanh toán một phần bằng đồng Nhân Dân Tệ.

“Tuy nhiên, điều này đã xảy ra: Người Trung Quốc mua dầu từ Saudi Arabia, thanh toán bằng đồng Nhân Dân Tệ.

Liệu các nước BRICS khác có làm như vậy không? Điều này ít có khả năng xảy ra hơn. Thật khó để tưởng tượng Argentina, Brazil hay Ấn Độ trả tiền dầu bằng đồng Nhân Dân Tệ thay vì đô la.

Việc mở rộng BRICS tới 11 quốc gia là cơ hội để khôi phục chủ quyền tiền tệ cũng như chính trị, nhưng liệu điều này có dẫn đến “Nhân Dân Tệ hóa” hay không thì vẫn chưa rõ ràng.

Tất nhiên, việc mở rộng này nhằm mục đích phi đô la hóa nền kinh tế thế giới. Vì nhiều cuộc trao đổi sẽ diễn ra bằng tiền tệ quốc gia. Sẽ thật tuyệt nếu Brazil mua dầu bằng đồng Real. Điều này sẽ được hỗ trợ một phần nhờ các biện pháp mà người Brazil đã thực hiện từ năm 2000 đến năm 2010 để chống lạm phát.

Liệu cuộc xung đột đang diễn ra ở Ukraine có tiếp tục ảnh hưởng đến sự cân bằng trong thương mại quốc tế?

Kể từ năm 2010, Nga và Trung Quốc đã giao dịch bằng tiền tệ của chính họ. Xu hướng này được đẩy nhanh bởi cuộc khủng hoảng Ukraine vì nhiều lý do.

Thứ nhất, Nga đang bị trừng phạt nên buộc phải giao thương nhiều hơn với Trung Quốc, ít giao dịch với Ấn Độ và các nước khác ở Nam bán cầu.

Người Nga được Triều Tiên và Iran cung cấp vũ khí, và khi nói đến thương mại và tiền tệ, họ quay sang Trung Quốc và tiến gần hơn đến Ấn Độ.

Bất kể ai nói gì, các lệnh trừng phạt đang và sẽ tiếp tục gây tổn hại cho nền kinh tế Nga, ngay cả khi Nga là quốc gia khó bị trừng phạt nhất do quy mô, tâm lý và dự trữ ngoại hối khổng lồ mà nước này sở hữu.

Các biện pháp trừng phạt này, cũng như việc mong đợi các biện pháp trừng phạt bổ sung chống lại các đồng minh của Trung Quốc hoặc ít nhất là các đối tác nổi loạn với Mỹ, đều là những yếu tố khiến Trung Quốc lo lắng.

Câu hỏi về tính chất ngoài lãnh thổ của luật pháp Mỹ đã được đặt ra (Đặc quyền ngoài lãnh thổ là khả năng Hoa Kỳ truy tố một quốc gia hoặc công ty bị tuyên bố là đã vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, ngay cả khi không phải trên đất Hoa Kỳ). Cuộc xung đột ở Ukraine cho thấy rõ ràng, rằng Mỹ đang tìm cách tạo ra nhiều trở ngại hơn nữa đối với Trung Quốc về mặt kinh tế và tiền tệ.

Do đó, đẩy nhanh quá trình phi đô la hóa đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Bắc Kinh. Chẳng hạn, lần đầu tiên vào tháng 4 năm 2023, đồng Nhân Dân Tệ trở thành đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong ngoại thương của Trung Quốc, vượt qua đồng đô la.

Đây rõ ràng là tín hiệu cho thấy Trung Quốc đang tăng tốc mở rộng khả năng tiền tệ, vốn đang quan tâm đến việc sử dụng đồng tiền của mình.

Tác giả: Michel Lefebvre

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang