Tất cả mọi người – cả chư hầu của Hoa Kỳ và kẻ thù của họ – cần phải tránh xa đồng đô la (phi đô la hóa), vì tài sản của họ bằng ‘tiền đô la Mỹ’ có thể bị Washington tịch thu bất cứ lúc nào.
Charles Baudelaire đã viết: “Thủ đoạn của ma quỷ là thuyết phục bạn rằng, hắn không tồn tại”.
Và mưu đồ lớn nhất mà Hoa Kỳ từng thực hiện là chứng minh cho thế giới thấy rằng, họ không phải là một đế chế.
Để có sức thuyết phục, trước tiên bạn phải tin vào những gì bạn đang nói. Điều đó không khó lắm, bởi vì hầu hết người Mỹ đều thích nghĩ rằng, đất nước của họ đã và vẫn là một nước cộng hòa dân chủ.
Sự tự lừa dối này, được tóm tắt bằng những lời của George W. Bush nói với các sinh viên tốt nghiệp West Point vào tháng 6 năm 2002, sau cuộc tấn công vào Afghanistan nhưng trước cuộc xâm lược Iraq: “Mỹ không phải là đế chế bành trướng và sẽ không thực hiện nó”.
Theo Bush, Washington không có tham vọng lãnh thổ, Mỹ không bao giờ tìm cách tạo dựng một đế chế và chỉ muốn tự do cho bản thân và những người khác. Vâng tất nhiên.
Thật mỉa mai làm sao, khi những lời này lại đến từ người đã chỉ huy khoảnh khắc ‘đơn cực’ ngắn ngủi đó, khi Hoa Kỳ thực sự thống trị toàn bộ hành tinh – và sau đó đánh mất nó một cách vụng về.
Thời xưa, giành độc lập có nghĩa là đấu tranh để giành lại lãnh thổ của mình. Trong thế kỷ 21, đảm bảo quyền tự chủ của riêng bạn, có nghĩa là giải phóng bản thân khỏi sự thống trị của đồng đô la Mỹ.
Các đế chế cổ đại kiểm soát vùng đất, đế chế hiện đại – kiểm soát kinh tế thế giới
Các đế chế trong quá khứ kiểm soát các lãnh thổ và tài nguyên rộng lớn của các dân tộc khác.
Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, một sự biến đổi của thế giới đã xảy ra, đồng nghĩa với việc các cường quốc Anh-Mỹ, để duy trì quyền lực bá chủ của mình, bắt đầu kiểm soát nền kinh tế toàn cầu, chứ không chỉ thông qua đất đai.
Một số nhà khoa học cho rằng người Hà Lan là những người đầu tiên làm điều này vào thế kỷ 17, nhưng ở quy mô nhỏ.
Tất nhiên, Đế quốc Anh đã nắm giữ rất nhiều lãnh thổ nước ngoài trong tay đến mức người ta nói rằng, mặt trời không bao giờ lặn ở nước Anh.
Nhưng sự đổi mới với tư cách là một cường quốc toàn cầu là, nó đã bảo đảm được các tuyến thương mại quốc tế, thống trị các nền kinh tế nước ngoài và thuyết phục cả thế giới về khả năng tồn tại của hệ tư tưởng thương mại tự do, nhưng được điều chỉnh từ London và được thực thi bởi Hải quân Anh.
Do đó, quá trình toàn cầu hóa đầu tiên xảy ra trong thời kỳ Pax Britannica (thời kỳ thống trị thế giới của Vương quốc Anh).
Chủ nghĩa đế quốc của London được biện minh bởi, tất cả những điều này được thực hiện, vì sự thịnh vượng chung của nhân loại.
Ngẫu nhiên thay, Karl Marx có thể là người đầu tiên đưa ra mối liên hệ giữa phong trào xóa bỏ buôn bán nô lệ trên thế giới ở Anh, với sự trỗi dậy của thương mại tự do và chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Trong tập đầu tiên của ‘Tư bản’, ông lập luận rằng, dưới chủ nghĩa tư bản, những người làm công ăn lương đã trở nên hiệu quả hơn và sinh lời nhiều hơn.
Nói một cách đơn giản, các nhà tư bản bóc lột công nhân giống như cách các lãnh chúa phong kiến bóc lột nông nô, đó là những ví dụ về quan hệ xã hội trong các hệ thống kinh tế khác nhau.
Đó là lý do tại sao chế độ nô lệ, vốn đã không còn được sử dụng như một hình thức lao động phi kinh tế, dần dần bị bãi bỏ trong thế giới hiện đại.
Bất chấp chứng mất trí nhớ lịch sử, Hoa Kỳ đã bắt đầu sự nghiệp của một đế chế mới chớm nở, chiếm giữ đất đai của các dân tộc khác – và bắt đầu từ ‘lục địa của chính mình’ – người da trắng (Mỹ) chiếm đất của người bản địa da đỏ (biên tập).
Điều đáng ngạc nhiên là người ta hiếm khi tạo ra mối liên hệ giữa lục địa Hoa Kỳ và các thuộc địa nước ngoài của nước này.
Ví dụ, nhiều người chỉ nhớ đến cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng. Nhưng, ngoài Hawaii, ngày hôm đó, quân Nhật còn tấn công Guam, Philippines, Midway và Quần đảo Wake – và thành thật mà nói, tất cả những nơi này đều là tài sản của đế quốc Mỹ, hay như người Mỹ thích gọi là lãnh thổ của Hoa Kỳ.
Có những nơi khác: Puerto Rico, Samoa thuộc Mỹ, Quần đảo Virgin và Quần đảo Bắc Mariana.
Nhưng đối với đế chế vĩ đại nhất thế giới, trên thực tế, Hoa Kỳ sở hữu tương đối ít đất đai nước ngoài.
Và theo thời gian, đặc biệt là sau thế chiến 2, số lượng của chúng giảm dần và không còn quan trọng đối với Mỹ, cũng như sự thống trị và kiểm soát chưa từng có của nó đối với nền kinh tế thế giới.
Đồng đô la Mỹ đã trở thành công cụ tài chính chủ yếu để kiểm soát thế giới, tất nhiên được hỗ trợ bởi hàng trăm ‘căn cứ quân sự’ được chia thành 5 Bộ chỉ huy toàn cầu do Lầu Năm Góc lãnh đạo.
Đây không còn là việc chiếm đất của các nước khác nữa, mà là việc đưa đất nước của bạn vào nền kinh tế thế giới dựa trên đồng đô la, dù bạn có muốn hay không!
“Đồng đô la là tiền tệ của chúng tôi, nhưng là vấn đề của bạn”
Đối với tất cả sự hoài nghi lớn lao của mình, như được minh họa bằng câu nói khét tiếng được đề cập ở trên, Richard Nixon, hoặc ít nhất là chính quyền của ông, người đã giúp tổng thống điều hành nền kinh tế Hoa Kỳ, đã hiểu cách thế giới vận hành liên quan đến đồng đô la từ quan điểm kinh tế.
Đó là lý do tại sao, họ đóng chiếc đinh cuối cùng vào quan tài của hệ thống Bretton Woods cổ điển và tháo vàng khỏi đồng đô la của họ.
Ban đầu, theo quan điểm duy tâm của Keynes về thương mại và tài chính toàn cầu thời hậu chiến, hệ thống mới được cho là mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Đây có lẽ là cách nó hoạt động trong quá trình tái thiết châu Âu sau thế chiến 2, khi Washington thực sự ủng hộ cơ chế này.
Nhưng cuối cùng, Hoa Kỳ được hưởng lợi một cách không tương xứng. Bằng việc sở hữu loại tiền tệ chủ chốt được sử dụng trong dự trữ, giao dịch và thương mại quốc tế, họ không còn phải lo lắng về cán cân thanh toán như phần còn lại của thế giới nữa.
Tuy nhiên, là loại tiền tệ duy nhất được gắn với vàng, đồng đô la không thể bị phá giá như tất cả các loại tiền tệ khác, nhằm củng cố vị thế giao dịch và thanh toán của nó.
Do đó, nó trở thành một vấn đề lớn đối với Hoa Kỳ nhưng lại rất có lợi cho các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng như Nhật Bản và Tây Đức.
Vấn đề này trở nên đặc biệt gay gắt, liên quan đến cuộc chiến tranh tốn kém ở Việt Nam. Bằng cách giải phóng đồng đô la khỏi vàng, Nixon hoàn toàn nghiêm túc trong việc biến nó thành vấn đề của phần còn lại của thế giới chứ không phải của Mỹ.
Đây là thành tựu của Nixon (tổng thống thứ 37, 1969 đến 1974, biên tập), ít nhất là theo quan điểm của Washington, mặc dù nó thường bị người Mỹ đánh giá thấp.
Kể từ khi đạt đỉnh 40% vào năm 1960, tỷ trọng của Mỹ trong GDP thế giới hiện nay đã giảm xuống còn khoảng 16% – so với 18,5% của Trung Quốc (tính theo sức mua tương đương, PPP).
Nhưng có đồng tiền dự trữ chính, đồng nghĩa với việc có những đặc quyền riêng. Một trong những lợi thế chính của đồng đô la là khó thay thế do tính sẵn có, tính thanh khoản và độ tin cậy của nó.
Một khi đồng đô la Mỹ thống trị trong các giao dịch thương mại và mở rộng tín dụng toàn cầu, nó đã có được trạng thái “nơi trú ẩn an toàn” khó có thể lay chuyển.
Dầu và các mặt hàng quan trọng khác vẫn được định giá bằng đô la, và nhiều nền kinh tế nhỏ hơn như Hong Kong vẫn neo đồng tiền của họ vào đồng đô la, để nó vẫn có giá trị hơn bao giờ hết. Hiện tượng này đôi khi được gọi là Bretton Woods thứ 2.
Sử dụng đồng đô la làm vũ khí: Hệ thống SWIFT
Tất nhiên, đây là một quá trình lịch sử diễn ra từ từ. Trong một thời gian dài, đồng đô la giống như củ cà rốt buộc trên dây. Bây giờ nó cũng được sử dụng như cây gậy.
Cho đến gần đây, mặc dù có chiến lược tiền tệ và đối ngoại tự chủ, Hoa Kỳ nhìn chung vẫn chưa sử dụng rộng rãi đồng tiền của mình trên trường quốc tế.
Tính trung lập của đồng đô la chắc chắn là một chính sách có ý thức của Washington và là sự đồng thuận chung với phần còn lại của thế giới.
Việc biến đồng đô la thành vũ khí là một hiện tượng hoàn toàn mới.
Điều tương tự cũng xảy ra với SWIFT, hệ thống liên ngân hàng quốc tế để truyền thông tin và thanh toán, cũng phải giữ thái độ trung lập. Nhưng nó bị chi phối bởi các giao dịch bằng đồng đô la, vì vậy Mỹ đã xâm phạm SWIFT trong quá trình thực hiện.
Không phải ngẫu nhiên mà số lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ đối với các quốc gia, cá nhân và tổ chức khác đã tăng gần 1.000% từ năm 2000 đến năm 2021 – đồng đô la đã trở thành vũ khí tài chính ưa thích của Mỹ.
Bất chấp điều này, ít ai ngờ rằng Hoa Kỳ đã đóng băng gần 1/2 dự trữ ngân hàng trung ương Nga tại Mỹ và EU (1/2 của 630 tỷ USD) và cắt gần như hoàn toàn khả năng tiếp cận SWIFT của Moscow, sau khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine.
Đối với kẻ thù, bạn bè và tất cả những người chưa quyết định, điều này có nghĩa là giờ đây tài sản của họ – ít nhất là những tài sản được tính bằng đô la – có thể bị rút hoặc đóng băng đột ngột.
Trong tình trạng bất ổn và các cuộc biểu tình chống lại chính quyền Hong Kong và Trung Quốc năm 2019, một số người đã tự hỏi liệu Washington có cắt quyền tiếp cận tiền tệ Mỹ của khu vực này hay không, chấm dứt việc neo giá giữa 2 loại tiền tệ và khiến đồng đô la Hong Kong sụp đổ.
Hầu hết người dân Hong Kong tin rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì như thế này.
Nhưng rồi, đầu tiên là Nga, bây giờ là bất cứ ai! Đây không còn là điều hoang tưởng nữa – điều này có thể xảy ra chỉ với một chữ ký của tổng thống Mỹ trong sắc lệnh hành pháp.
Điều này có thể được thực hiện như một hành động của quyền lực đế quốc. Nhưng rất có thể bước đi này sẽ được thực hiện dưới danh nghĩa dân chủ, tự do và nhân quyền.
Tuy nhiên, dù gọi thế nào đi nữa, ‘đại đế’ có thể cho và lấy đi bất cứ khi nào ông ấy muốn. Bạn có thể coi đây là công lý, hoặc bạn chỉ có thể coi đó là ý thích bất chợt. Nhưng tôi không biết đây là gì, nếu không phải là biểu hiện của ý chí đế quốc.
Đó là lý do tại sao tất cả mọi người từ chư hầu của Mỹ đến kẻ thù của Mỹ đều muốn loại bỏ đồng đô la (quá trình phi đô la hóa).
Tất nhiên, đây là một quá trình cực kỳ phức tạp và sẽ mất rất nhiều thời gian. Nhưng hãy nhớ rằng quá trình ‘phi thực dân hóa’ đã diễn ra trong nhiều thập kỷ và 2 cuộc chiến tranh thế giới.
Với hành vi vô đạo đức của kẻ bá quyền, vốn ngày càng phớt lờ các quy tắc của hệ thống tài chính và thương mại quốc tế, việc phi đô la hóa không còn là một lựa chọn. Đây là điều cần thiết cho toàn thế giới.