Tác giả: Israa
Thỏa thuận petrodollar 50 năm của Saudi Arabia với Hoa Kỳ đã hết hạn, mà không có thỏa thuận mới và Saudi Arabia, hiện sẽ bán dầu bằng nhiều loại tiền tệ bao gồm đồng Nhân dân tệ, đồng Euro, đồng Yên thay vì chỉ bán bằng đồng đô la Mỹ.
Trước kỷ nguyên petrodollar
Câu chuyện về petrodollar bắt đầu với nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm củng cố đồng tiền của mình, cũng như tăng sự phụ thuộc của thế giới vào đồng đô la Mỹ, và mối quan hệ chặt chẽ giữa đồng đô la và thị trường dầu mỏ toàn cầu bắt nguồn từ ‘Thỏa thuận Quincy’ năm 1945 giữa tổng thống Franklin Roosevelt và quốc vương Saudi Arabia Abdulaziz bin Saud, theo đó họ trao đổi nguồn cung cấp năng lượng của Saudi Arabia để đổi lấy việc Mỹ cung cấp sự bảo vệ vô điều kiện cho gia đình Al Saud – thỏa thuận có thời hạn 60 năm, nhưng nó đã được cựu tổng thống George W. Bush gia hạn vào năm 2005.
Vào mùa hè năm 1944, khi Thế chiến thứ 2 chuẩn bị kết thúc, đại diện của khoảng 44 quốc gia đã gặp nhau tại Bretton Woods ở New Hampshire, Hoa Kỳ và đồng ý chôn vùi một ‘kỷ nguyên cũ’ và bắt đầu một kỷ nguyên ‘thời đại mới’ – những phác thảo chung về nó được xây dựng bởi người Mỹ … Họ đã lãnh đạo phe của những người chiến thắng trong Thế chiến thứ 2.
Người Mỹ đưa ra ‘cái giá’ tương đối lớn, nhưng vào thời điểm đó không ai biết quy mô của nó, và theo kết quả của Hội nghị Bretton Woods, thể hiện rõ quyền bá chủ Hoa Kỳ, cái giá đó là lật đổ đồng bảng Anh với tư cách là đồng tiền dự trữ chính toàn cầu, vốn thuộc về người Anh, quốc gia khi đó đang sở hữu (bằng cách xâm lược, biên tập) 1/3 diện tích đất đai trên hành tinh.
Vào những năm 1950, khu vực đồng bảng Anh kiểm soát một nửa thương mại thế giới và sự thống trị của nó đạt đến đỉnh cao, chiếm hơn một nửa dự trữ ngoại hối của thế giới, trong khi đồng đô la đóng vai trò thứ yếu so với đồng bảng Anh.
Người Mỹ không hài lòng với điều đó, nhưng họ liên kết giá trị của đồng đô la với dự trữ vàng, xem đây là đồng tiền dự trữ mạnh nhất thế giới, đến mức nó là đại diện hợp pháp duy nhất của vàng, để nó không được giao dịch, hoặc được định giá ngoại trừ bằng tiền của người Mỹ, và 35 đô la được ấn định cho 1 ounce vàng. Những người tham dự đã ‘ký tên’ và Mỹ đã giành chiến thắng.
Người Mỹ đã mở rộng hoạt động in tiền và không thể thực hiện lời hứa của mình cũng như bảo đảm đồng đô la dưới sự bảo chứng của vàng. Các nước Châu Âu và các nền kinh tế mới nổi sau chiến tranh như Nhật Bản và Hàn Quốc đã tìm cách phá vỡ sự nhượng bộ của Mỹ và bắt đầu mua/tích trữ vàng, khiến lượng vàng dự trữ sụt giảm ngay cả ở chính nước Mỹ.
Vì vậy, cựu tổng thống Mỹ Richard Nixon đã suy nghĩ vào thời điểm đó và đưa ra một trong những quyết định táo bạo nhất trong lịch sử nước Mỹ vào năm 1971, đó là phá vỡ chế độ neo đồng đô la vào vàng, vốn đóng vai trò là xương sống của hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods – với tỷ giá hối đoái cố định, và đồng đô la trở thành một loại tiền giấy đơn thuần, và ông nói vào thời điểm đó: “Đồng đô la sẽ không được liên kết với bất kỳ hàng hóa hay kim loại nào, và bất cứ ai ủng hộ nó là sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của nền kinh tế của chúng ta, và chúng ta rất khỏe”.
Mỹ đã đưa ra quyết định của mình vào thời điểm đó, điều này được phản ánh trong nền kinh tế Mỹ với mức lạm phát cao và thâm hụt tài khoản vãng lai, trong bối cảnh chi tiêu quân sự tăng do cuộc chiến đang diễn ra ở Việt Nam, đồng thời gây áp lực giảm giá đồng đô la đối với nền kinh tế và gây ra sự phẫn nộ của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế đang cạnh tranh hoặc những quốc gia có tham vọng cạnh tranh.
Nhiều nước đe dọa rút lượng vàng dự trữ của Mỹ, nên Hoa Kỳ phải có một vị cứu tinh cho đồng đô la của mình, đồng thời cung cấp một giải pháp thay thế cho vàng – sẽ mang lại sức nặng và sức mạnh cho đồng đô la. Làm thế nào có thể khôi phục niềm tin của thế giới vào đồng đô la?
Xem thêm: Giá Vàng Tăng Là Dấu Hiệu Của Quá Trình Phi Đô La Hóa?
Hệ thống petrodollar
Ý tưởng này đến với Hoa Kỳ khi cuộc chiến tháng 10 năm 1973 nổ ra giữa Ai Cập và “Israel”. Sau đó xảy ra cú sốc dầu mỏ vào mùa thu năm 1973 với sự gia nhập của các nước Ả Rập theo hướng ủng hộ phía Ai Cập, cụ thể là Saudi Arabia do vua Faisal bin Abdulaziz đứng đầu.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã giảm sản lượng dầu, và họ lúc đó đã ngừng xuất khẩu dầu ra thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây ủng hộ “Israel”.
Trong khi đó, trong bối cảnh bất ổn về kinh tế và chính trị, cũng như khi các phiên điều trần về vụ watergate sắp kết thúc, chính quyền Nixon đã bắt tay vào một sứ mệnh ngoại giao nhằm tăng cường quan hệ đối tác kinh tế với Saudi Arabia, quốc gia đóng vai trò trung tâm trong thương mại năng lượng toàn cầu.
Nhà Trắng đã triệu tập một người được mệnh danh là “con cáo chính trị” của mình, Henry Kissinger, và bổ nhiệm ông ta làm ngoại trưởng, yêu cầu Kissinger đưa ra các giải pháp để chấm dứt cuộc khủng hoảng, nhưng với điều kiện nước Mỹ phải chiến thắng trong bất kỳ thỏa thuận nào sẽ diễn ra.
Mật khẩu là dầu mỏ, và chìa khóa của nó là Saudi Arabia, nhà xuất khẩu dầu số một thế giới, Kissinger vội vã ký kết một thỏa thuận nhằm ổn định giá trị đồng đô la, và ông đã tham gia vào các cuộc đàm phán kéo dài với nhà vua Saudi Arabia cho đến khi thuyết phục được nhà vua về một thỏa thuận làm hài lòng tất cả mọi người. Nó được hoàng tử Fahd bin Abdulaziz ký và diễn ra vào tháng 7 năm 1974. Tức là một năm sau chiến tranh.
Trong suốt thỏa thuận, giá dầu được gắn với đồng đô la, và nói một cách rõ ràng hơn, Riyadh có nghĩa vụ phải bán dầu của mình độc quyền bằng đô la Mỹ, được biết đến với cái tên “petrodollar”, khiến đồng đô la trở thành ngai vàng của các loại tiền tệ và khiến đồng đô la trở thành đồng tiền chung.
Nền kinh tế Mỹ có ảnh hưởng đến sự vận động của các nền kinh tế thế giới trong suốt 5 thập kỷ và Saudi Arabia cũng được hưởng lợi. Điều quan trọng là phải đảm bảo được nguồn dầu mỏ, ổn định quản lý và hỗ trợ quân sự rộng rãi.
Không chỉ vậy, người Mỹ còn quy định rằng Saudi Arabia đầu tư số tiền thu được từ dầu mỏ vào thị trường trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ, để giúp tài trợ cho thâm hụt tài chính và tăng cường nhu cầu đối với tài sản của Mỹ, để người Mỹ đảm bảo rằng sẽ không có sự thiếu hụt tài chính, một cuộc khủng hoảng khác đối với đồng đô la.
Trên thực tế, các điều kiện của vua Faisal như sau: Rút “Israel” về các vùng lãnh thổ vào năm 1948, và rút lại việc Washington công nhận Jerusalem là thủ đô của “Israel”, mà họ đã công nhận vào thời tổng thống Harry Truman. Và ngoài ra, Hoa Kỳ cam kết đảm bảo an ninh cho chế độ Saudi Arabia và cung cấp viện trợ quân sự, và đến lượt nó, Saudi Arabia đã thuyết phục được các nước OPEC còn lại.
Bất chấp tình trạng hỗn loạn và bất ổn ở Hoa Kỳ vào thời điểm đó, thỏa thuận petrodollar cũng mang lại lợi nhuận rất cao cho Hoa Kỳ, quốc gia đã tìm được nguồn dầu ổn định và chứng tỏ rằng nước này vẫn giữ được khả năng thiết lập chương trình nghị sự quốc tế.
Không chỉ vậy, thỏa thuận này còn nâng cao vị thế của đồng đô la trên toàn cầu và đảm bảo nhu cầu ổn định đối với đồng đô la Mỹ, vì các quốc gia khác luôn cần đồng đô la để mua bất kỳ thùng dầu nào và nhu cầu về đồng đô la ngày càng tăng trên toàn cầu để mua dầu, đã giúp duy trì sức mạnh của đồng tiền Mỹ.
Xem thêm: Sự Thống Trị Của Đồng Đô La Diễn Ra Như Thế Nào?
Sau 50 năm thì sao?
Bất kể điều gì xảy ra vào những thời điểm đó, đặc biệt là vụ ám sát vua Faisal vào năm sau thỏa thuận, “petrodollar” đã ra đời, đặt đồng đô la lên ngai vàng của nền kinh tế thế giới, nâng cao việc sử dụng nó trong giao dịch dầu mỏ và các hàng hóa cơ bản, đồng thời tạo nguồn cầu ổn định đối với trái phiếu kho bạc Mỹ, góp phần củng cố hiệu quả vị thế là đồng tiền dự trữ và tài trợ chính trên thế giới, đặc biệt sau khi tất cả các nước OPEC đồng ý tham gia thỏa thuận Saudi Arabia-Mỹ và không một đồng tiền nào khác có thể cạnh tranh được.
Ngay cả khi giá dầu giảm trên toàn cầu, Hoa Kỳ không bị tổn hại nhiều như các nước xuất khẩu dầu bị tổn hại. Đồng đô la vẫn tiếp tục lưu thông, và dầu là nhu cầu của toàn thế giới, và hầu hết các nền kinh tế và ngành công nghiệp đều bị ảnh hưởng. Và Mỹ được hưởng lợi từ sự sụt giảm giá, vì họ là một trong những người mua lớn nhất. Kết quả là đồng đô la ‘ngồi trên ngai vàng’ trong hơn nửa thế kỷ.
Trong thời kỳ này, nhiều cái tên, nhiều gương mặt đã thay đổi. Liên Xô, đối thủ nổi bật nhất của Mỹ, sụp đổ, nhiều cuộc chiến tranh xảy ra, xung đột bùng phát đến gần các giếng dầu ở vùng Vịnh, những gương mặt mới lên nắm quyền ở Saudi Arabia và Iran đã sở hữu vũ khí hạt nhân.
Nửa thế kỷ trước, Trung Quốc không phải là một siêu cường, cũng không có người cai trị nước Nga tên là Vladimir Putin, cũng như Saudi Arabia cũng không có một dự án kinh tế nào như bây giờ. Có một vấn đề đã thay đổi, đó là Israel đã tấn công và chiếm đóng Palestine.
Mặt khác, Châu Âu ‘già’ đã thay đổi và Liên minh Châu Âu (EU) ra đời, cũng như một tổ chức khác đang tìm cách cạnh tranh với các cường quốc kinh tế thế giới có tên là “BRICS”, và nền kinh tế của Brazil và Ấn Độ ngày càng phát triển, đồng thời các quốc gia khác bắt đầu khao khát mở rộng ra ngoài biên giới của họ và nhiều thay đổi khác có khả năng thay đổi các ‘phương trình’ và ‘thỏa thuận lịch sử’ quan trọng.
Đây chính xác là những gì đã xảy ra: 50 năm trôi qua nhanh chóng (tính từ 1973), vị thế thống trị toàn cầu mà Hoa Kỳ từng có đã trở nên tương đối yếu và tỷ trọng của nước này trong GDP toàn cầu đã giảm từ 40% năm 1960 xuống còn 25% vào năm 2023. Tuy nhiên, nó vẫn lớn hơn nhiều so với đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Trung Quốc.
Nền kinh tế Trung Quốc đã vượt qua đối tác Mỹ về sức mua tương đương (PPP) và báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) năm 2020 cho thấy nền kinh tế Trung Quốc lớn hơn 1/6 so với nền kinh tế Mỹ (24,2 nghìn tỷ USD so với 20,8 nghìn tỷ USD).
Và do đó, Washington đã có để cạnh tranh ảnh hưởng với Bắc Kinh, quốc gia ngày càng trở nên quyết đoán hơn, đồng thời phải đối mặt với áp lực ngay cả từ các đồng minh như EU và các nước khác, những người muốn trở nên độc lập hơn với Washington về các vấn đề chính sách tài chính và đối ngoại.
Trung Quốc đang tìm cách đưa đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền quốc tế và nói tạm biệt với đô la Mỹ. Họ đã gần đạt được mục tiêu, đồng Nhân nhân tệ được giao dịch đứng thứ 4 trên thế giới. Ngoài ra, Trung Quốc đã liên kết đồng Nhân dân tệ với một số kim loại cạnh tranh với dầu mỏ.
BRICS, do Trung Quốc và Nga lãnh đạo, trong tương lai có thể chấm dứt thời đại hoàng kim của đồng đô la Mỹ. Trung Quốc đang cố gắng thiết lập quan hệ thương mại khắp Trung Đông, nơi ảnh hưởng của Mỹ đang giảm đi nhanh chóng.
Xem thêm: Thâm Hụt Kép Tàn Phá Nền Kinh Tế Mỹ?
Cái kết của đồng đô la Mỹ
Mối đe dọa khác đối với đồng đô la đến từ Nga, nơi tổng thống Vladimir Putin nói rằng “ngay khi kỷ nguyên neo giá vàng với đồng đô la đã chết, kỷ nguyên neo giá dầu vào đồng đô la cũng sẽ chết”, đó là những gì ông đang thực hiện với chính sách của mình.
Nga, Trung Quốc và đồng minh của họ đang thay thế đồng đô la Mỹ, hoặc không sử dụng nó trong các giao dịch thương mại giữa họ.
Vài ngày trước, Nga thông báo rằng Sở giao dịch chứng khoán Moscow đã ngừng giao dịch bằng đô la Mỹ và Euro, đồng thời nhiều ngân hàng đã ngừng rút và chuyển khoản trực tuyến, để đáp trả lệnh trừng phạt mới của Mỹ nhắm vào công ty quản lý sàn giao dịch chứng khoán có tên là “MOEX”.
Nga đã tìm cách củng cố chủ quyền kinh tế của họ và giảm sự phụ thuộc vào các loại tiền tệ phương Tây như đồng đô la Mỹ và đồng Euro, đồng thời mô tả chúng là “những loại tiền tệ độc hại” trước các lệnh trừng phạt áp đặt lên nước này do cuộc chiến Ukraine, mà Bộ tài chính Hoa Kỳ đã ra lệnh thực hiện.
Khi Moscow tìm cách tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại với Bắc Kinh, tỷ trọng của đồng Nhân dân tệ trong thương mại của Nga đã tăng lên, sau khi ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố rằng, Nga và Trung Quốc đã gần như bãi bỏ hoàn toàn việc sử dụng đồng đô la trong các giao dịch thương mại và kinh tế của họ – xác nhận rằng Moscow và Bắc Kinh đã chuyển hơn 90% các giao dịch thanh toán đối ứng của họ sang tiền tệ quốc gia.
Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc đã lật đổ đồng đô la để trở thành đồng tiền được giao dịch nhiều nhất trong MOEX, chiếm 54% tổng giao dịch ngoại tệ trên Sở giao dịch chứng khoán Moscow vào tháng 5 năm 2023, theo thông tin từ kênh “RBC News” của Nga.
Sau khi Nga tấn công Ukraine vào tháng 2 năm 2022, đồng đô la đã được Mỹ sử dụng để chống lại Nga, khi phương Tây áp đặt hơn 16.000 lệnh trừng phạt đối với Moscow, dẫn đến việc đóng băng tài sản của Ngân hàng trung ương Nga và ngăn cản các ngân hàng Nga sử dụng hệ thống thanh toán quốc tế “SWIFT”.
Điều này đã thúc đẩy Điện Kremlin phát triển các kênh tài chính thay thế, nhằm giảm sự phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ và những lời kêu gọi từ bỏ đồng đô la ngày càng gia tăng trong nhóm BRICS, bao gồm cả việc thành lập một đồng tiền dự trữ quốc tế chung như một biện pháp đáp lại sự thống trị của đồng đô la – như đã nêu trong tuyên bố của tổng thống Nga năm 2019, Nga đặt mục tiêu “thoát khỏi tình trạng đô la hóa” trong nền kinh tế của mình và từ chối đồng tiền của các quốc gia “không thân thiện”.
Dầu là trung tâm của sự dịch chuyển khỏi đồng đô la, và cái gọi là “hạm đội tàu bóng tối” đã giúp trốn tránh các lệnh trừng phạt, tiếp tục cuộc chiến ở Ukraine và chuyển hướng dầu của Nga sang người mua ở Châu Á.
Theo Viện tài chính quốc tế, trị giá 17 tỷ USD vào tháng 11 năm 2023, dầu của Nga được bán bằng đồng Nhân dân tệ Trung Quốc, đồng Rúp của Nga, đồng Dirham của UAE và đồng Rupee của Ấn Độ.
Nga trở thành nhà cung cấp dầu thô lớn nhất của Trung Quốc vào năm 2023, bán hơn 2 triệu thùng mỗi ngày cho đến tháng 7 năm 2023, chiếm hơn 1/3 tổng lượng dầu thô xuất khẩu của nước này và các chuyến hàng chủ yếu được thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ, theo JP Morgan.
Ấn Độ nổi lên là khách hàng năng lượng mới lớn nhất của Nga sau khi New Delhi yêu cầu các công ty dầu mỏ lớn nhất của họ mua dầu thô của Nga với giá chiết khấu và sử dụng đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc để thanh toán một số lượng dầu nhập khẩu từ Nga, trong khi phần thanh toán còn lại được thực hiện bằng đồng Rupee của Ấn Độ, đồng Dirham của UAE thay vì đô la để tránh các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với nước này.
Áp lực kinh tế đối với Hoa Kỳ không chỉ giới hạn ở điều này, vì Trung Quốc đã nỗ lực bán trái phiếu Kho bạc Hoa Kỳ trong một thời gian và gần đây đã giảm đầu tư vào trái phiếu và tín phiếu Kho bạc Hoa Kỳ xuống còn 767 tỷ USD, lần đầu tiên kể từ năm 2009, và cũng đã bắt đầu chuyển tiền của mình sang các tài sản đáng tin cậy hơn, đặc biệt là vàng.
Xem thêm: Hệ Thống Tài Chính Quốc Tế Đang Thay Đổi Như Thế Nào?
Khi các quốc gia và khu vực BRICS, bao gồm Trung Đông và Châu Á, ngày càng tìm cách ưu tiên giao dịch bằng đồng nội tệ và sử dụng chúng để thanh toán xuyên biên giới, tầm quan trọng của đồng đô la trong tài chính quốc tế đang giảm dần, đặc biệt là trong nền tài chính toàn cầu, trên thị trường dầu mỏ – việc sử dụng đồng petrodollar.
Ngoài BRICS, nhiều quốc gia khác cũng tìm cách thoát khỏi đồng đô la Mỹ. Một ví dụ là Argentina, quốc gia này đã công bố vào những tháng đầu năm 2023 về kế hoạch áp dụng một loại tiền tệ thống nhất với Brazil, Argentina đề xuất tên của nó là “To Sur”, nghĩa là miền nam.
Trước các lệnh trừng phạt của Mỹ và các hạn chế khác, Iran và Venezuela đã chuyển sang sử dụng các loại tiền tệ khác trong các giao dịch dầu mỏ, và trong khi Venezuela sử dụng đồng Euro và đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, thì Iran đã tăng cường bán dầu bằng các loại tiền tệ thay thế và thúc đẩy xuất khẩu dầu của nước này – mức cao nhất trong 5 năm, Iran bán phần lớn dầu bằng đồng Nhân dân tệ cho Trung Quốc và các nước khác.
Vào tháng 12 năm 2023, Iran và Nga đã ký kết một thỏa thuận thương mại bằng cách sử dụng đồng nội tệ của họ thay vì đồng đô la, và truyền thông nhà nước Iran vào thời điểm đó đưa tin rằng thỏa thuận đã được hoàn tất trong cuộc họp giữa thống đốc ngân hàng trung ương của 2 nước.
Pakistan đã bắt đầu thanh toán cho các chuyến hàng dầu thô giảm giá của Nga bằng đồng Nhân dân tệ vào năm 2023, một sự thay đổi lớn trong chính sách thanh toán thương mại vốn chủ yếu dựa vào đô la. Động thái này trùng hợp với tình trạng thiếu đô la ở quốc gia Nam Á này.
Cũng vào mùa hè năm ngoái, UAE và Ấn Độ đã ký một thỏa thuận giao dịch bằng tiền tệ của họ thay vì đồng đô la, bắt đầu bằng việc vận chuyển 1 triệu thùng dầu của UAE được một nhà máy lọc dầu của Ấn Độ mua và lần đầu tiên thanh toán bằng đồng Rupee Ấn Độ cho Abu Dhabi – Công ty dầu mỏ quốc gia Dhabi (ADNOC).
Nỗ lực cuối cùng nhằm thay thế đồng đô la
Chiếc đinh còn lại đóng vào quan tài đồng đô la là cách tiếp cận mới của Saudi Arabia, quốc gia đã mở đầu thời kỳ hoàng kim của đồng đô la, khi nó liên kết mặt hàng quan trọng nhất của mình với đồng đô la Mỹ trong 50 năm, theo thỏa thuận hết hạn vào tháng 6 năm 2024.
Hai bên tham gia hợp đồng không bình luận về khả năng gia hạn thỏa thuận hay không, mặc dù đã hơn 2 tuần trôi qua kể từ ngày gia hạn, điều này đặt ra câu hỏi về hình thức của giai đoạn ‘hậu thỏa thuận’ nếu Saudi Arabia không gia hạn, và điều này sẽ có tác động gì đến quan hệ giữa hai nước.
Nhưng Riyadh, bằng cách không gia hạn thỏa thuận – ít nhất là cho đến hôm nay – dường như đã quyết định vượt ra ngoài sự thống trị truyền thống của đồng đô la Mỹ, và với việc lựa chọn hết hạn thỏa thuận hoặc sụp đổ, Saudi Arabia sẽ được phép tiến hành bán dầu bằng nhiều loại tiền tệ bao gồm đồng Nhân dân tệ, Yên Nhật, Euro và đồng bảng Anh, cũng như tiền điện tử, chẳng hạn như Bitcoin, vốn là một thách thức mới đối với đồng đô la Mỹ.
Một sự thay đổi lớn hơn nhiều có thể xảy ra nếu Saudi Arabia, nhà xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, bắt đầu bán một lượng lớn dầu bằng các loại tiền tệ khác.
Nếu dầu được định giá bằng một loại tiền tệ khác ngoài đồng đô la, điều này có thể dẫn đến giảm nhu cầu toàn cầu đối với đồng đô la Mỹ và có thể gây ra tình trạng lạm phát cao ở Hoa Kỳ và tăng lãi suất, đồng thời khiến nền kinh tế suy yếu (thị trường trái phiếu), trong bối cảnh giá trị đồng đô la giảm.
Các chuyên gia kỳ vọng rằng Saudi Arabia sẽ cắt đứt quan hệ với đồng đô la Mỹ, đặc biệt là sau khi nước này gia nhập BRICS, nhóm đang nỗ lực mở rộng các khoản thanh toán không liên quan đến đồng đô la và cũng đang rời xa hệ thống “SWIFT” do Mỹ kiểm soát. Kết quả là giá trị của đồng đô la Mỹ và thị trường tài chính Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng.
Nhiều quốc gia cũng đã cố gắng sử dụng và nắm giữ các loại tiền tệ dự trữ và quốc tế khác, đồng thời phát triển các hệ thống thanh toán xuyên biên giới thay thế cho đồng đô la để giảm nguy cơ bị Washington thường xuyên sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế và tài chính – như một công cụ của chính sách đối ngoại.
Saudi Arabia, cùng với Trung Quốc và các quốc gia khác, tham gia dự án mBridge, để sử dụng ‘tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương’ cho việc thanh toán xuyên biên giới.
Tháng 11 năm 2023, Saudi Arabia và Trung Quốc đã thiết lập một ‘đầu mối’ hoán đổi tiền nội địa trị giá khoảng 7 tỷ USD, mà Ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết sẽ tăng cường quan hệ tài chính và mở rộng việc sử dụng đồng nội tệ thay vì đồng đô la.
Những bước đi này có khía cạnh kinh tế và chính trị, và thông qua chúng, các quy tắc của trò chơi kinh tế ở Trung Đông có thể được điều chỉnh lại phù hợp với những thay đổi đang diễn ra trong khu vực, và chúng có thể là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của Riyadh nhằm đa dạng hóa các liên minh và giảm bớt mối quan hệ đồng minh, phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ, nhưng liệu những bước đi này có loại bỏ đồng đô la khỏi ‘vị trí’ của nó không?
Kỷ nguyên của petrodollar đã kết thúc?
Các điều kiện cho thỏa thuận petrodollar – có thể hợp lý khi nó được ký kết – đã không còn tồn tại cho đến hôm nay cách đây 50 năm, Mỹ là thị trường chính của dầu mỏ Saudi Arabia. Nhưng hiện tại, Mỹ đã chuyển đổi từ một nước nhập khẩu dầu sang nước xuất khẩu ròng dầu mỏ, điều này có nghĩa họ ít phụ thuộc vào dầu mỏ của Saudi Arabia.
Ngược lại, Trung Quốc đã trở thành khách hàng dầu mỏ lớn nhất của Saudi Arabia, chiếm hơn 20% lượng dầu xuất khẩu của Vương quốc này và hiện là nhà cung cấp dầu thứ 2 sau Nga, đồng thời đang nỗ lực thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực hydrocarbon, cũng như tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như an ninh và công nghệ.
Như đã biết, chính quyền của tổng thống Mỹ Joe Biden bắt đầu kỷ nguyên của mình với lập trường cứng rắn với chế độ Saudi, nhưng đã thay đổi quan điểm về việc biến Saudi Arabia thành một “quốc gia hạ đẳng” và đã cố gắng lấy lòng Saudi Arabia trong một thời gian, với một dự án toàn diện về “hợp tác hạt nhân, quốc phòng, kinh tế và công nghệ,” cũng như hướng tới việc thành lập một nhà nước Palestine và những nỗ lực nhằm giải quyết xung đột ở Gaza.
Bởi vì Washington luôn áp dụng chính sách “cây gậy và củ cà rốt” ở Trung Đông nên các nhà quan sát luôn nghi ngờ bản chất các động thái của nước này trong khu vực. Sau khi Mỹ đối đầu với lực lượng Houthi, có rất nhiều nghi ngờ và những gì mà hãng tin AP mô tả: “Những trận hải chiến khốc liệt nhất của Mỹ kể từ … “Chiến tranh thế giới thứ hai chống lại Houthi ở Yemen thật nực cười”.
Xem thêm: Houthi, Anh Và Mỹ: Xung Đột Trung Đông
Hoặc điều này khẳng định rằng, Hoa Kỳ không còn là cường quốc quân sự lớn nhất vì nước này đang thua các lực lượng dân quân như Houthi và thậm chí cả Taliban, hoặc Mỹ đang cố gắng tống tiền Saudi Arabia thông qua Houthi, bằng cách thổi phồng quy mô và sức mạnh của họ, sau đó thành lập một vùng ảnh hưởng lâu dài của Mỹ ở Biển Đỏ với lý do bảo vệ an ninh hàng hải.
Bất kể địa chính trị và tình trạng phi đô la hóa ở nước ngoài, việc thế giới hướng tới các nguồn năng lượng sạch hơn, xanh và tái tạo có thể dẫn đến việc giảm dần sự phụ thuộc vào dầu mỏ theo thời gian, ngay cả ở các nước giàu dầu mỏ như Saudi Arabia.
Điều này cuối cùng có thể dẫn đến sự sụt giảm của dòng chảy petrodollar khi nhu cầu về dầu và tầm quan trọng của nó như một mặt hàng năng lượng chính trên toàn thế giới.
Điều này cũng là do sự xuất hiện của các quốc gia sản xuất dầu mới như Brazil và Canada, những nước này đã thách thức sự thống trị truyền thống của Trung Đông, do đó, khoảng 80% doanh số bán dầu toàn cầu được định giá bằng đô la tính đến năm 2023.
Kể từ cuối năm 2023, đồng đô la thống trị đã phải đối mặt với những phản ứng dữ dội trên thị trường dầu mỏ, khi tỷ lệ dầu toàn cầu được mua và bán bằng các loại tiền tệ khác ngoài đồng đô la đã tăng lên khoảng 20% và vào năm 2023, 12 hợp đồng hàng hóa lớn được thanh toán bằng các loại tiền tệ khác ngoài đồng đô la, đây là một mức tăng đáng kể so với những năm trước, chứng kiến 7 hợp đồng vào năm 2022 và chỉ có 2 hợp đồng trong năm 2015.
Với động lực thay đổi, sự phân mảnh kinh tế và khả năng chuyển dịch các hoạt động kinh tế và tài chính toàn cầu thành các khối riêng biệt, tỷ trọng của đồng đô la trong khối lượng dự trữ ngoại hối do các Ngân hàng trung ương thế giới nắm giữ, lên tới khoảng 12,9 nghìn tỷ USD, đã giảm – từ hơn 70% năm 2000 xuống còn khoảng 55% vào cuối năm 2023.
IMF cho biết trong một báo cáo vào tháng 6 năm 2024 rằng, sự suy giảm vai trò của đồng đô la trong hai thập kỷ qua không chỉ được bù đắp bằng đồng Euro, đồng Yên hoặc bảng Anh mà còn là các loại tiền dự trữ phi truyền thống, bao gồm cả đồng đô la Úc, đồng đô la Canada, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, đồng Won Hàn Quốc, đô la Singapore.
Bất chấp việc Nga và Saudi Arabia đang cạnh tranh để thoát khỏi giao dịch bằng đồng đô la Mỹ, sự thống trị của đồng đô la trong dự trữ ngoại hối vẫn được duy trì trong tương lai gần, vượt xa đồng Euro, vốn chỉ chiếm vị trí thứ hai, 20%.
Vai trò trung tâm của đồng đô la đối với hàng hóa là một khía cạnh cho thấy sự thống trị rộng lớn hơn của nó trong thương mại và tài chính toàn cầu. Khoảng 90% tất cả các giao dịch trên thị trường ngoại hối là đồng đô la, trong khi ngày nay một nửa thương mại quốc tế được thực hiện bằng đô la, điều này mang lại rất ít động lực để người Saudi chuyển đổi sang các loại tiền tệ khác.
Chỉ số đô la Mỹ – thước đo giá trị của nó so với rổ các loại tiền tệ chính – đã tăng hơn 3% trong năm 2024 sau khi giảm 2,1% trong năm 2023 và chỉ số đô la Bloomberg đã tăng hơn 4% trong năm 2024, điều này phản ánh sự tiến bộ chống lại tất cả các đối tác của nó tại các thị trường phát triển và các thị trường mới nổi chính, trong bối cảnh bất ổn địa chính trị ngày càng gia tăng và sự suy thoái ở một số nền kinh tế lớn.
Vào đầu những năm 2000, cố tổng thống Iraq Saddam Hussein đã yêu cầu thanh toán bằng đồng Euro như một phần của chương trình ‘dầu đổi lương thực’ của Liên hợp quốc, và Iraq nhất quyết loại bỏ đồng đô la Mỹ như một ‘tiền tệ của kẻ thù’. Hầu như toàn bộ lượng dầu xuất khẩu của Iraq theo chương trình này đều được tính bằng đồng Euro kể từ năm 2001.
Động thái này được coi là tồi tệ về mặt kinh tế vì toàn bộ giao dịch dầu mỏ toàn cầu được thực hiện bằng đô la, tuy nhiên, giá trị đồng Euro tăng rõ rệt, lãi suất tăng và khả năng thanh toán cho các nhà cung cấp Châu Âu chủ yếu bằng đồng Euro được cho là đã góp phần vào vận may cho chương trình đổi dầu lấy lương thực của Iraq.
Ngày nay, một số người cho rằng, khó có thể một lần nữa làm lung lay vai trò trung tâm của đồng đô la trên thị trường dầu mỏ, và ngay cả khi các quốc gia vùng Vịnh sử dụng đồng nội tệ trong giao dịch, đồng Riyal của Saudi Arabia – cũng như trường hợp của nhiều loại tiền tệ khác – vẫn liên quan đến đồng đô la Mỹ.
Ngân hàng thương mại Abu Dhabi kỳ vọng rằng, đồng Riyal của Saudi Arabia sẽ tiếp tục được neo giá với đồng đô la “trong thời gian ngắn và trung hạn”, vì Saudi Arabia cần hàng trăm tỷ đô la để chuyển đổi nền kinh tế và thoát khỏi xuất khẩu dầu như một phần của “Chương trình tầm nhìn 2030”, phụ thuộc vào việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Cách Saudi Arabia xử lý petrodollar vẫn là một điềm báo quan trọng về tương lai tài chính sắp tới.