Tác giả: Marcus Jonsson
Chính xác thì NATO, liên minh được cho – có mục đích phòng thủ này là gì? Theo tuyên bố của NATO, họ có trách nhiệm chống lại mối đe dọa đối với ‘trật tự an ninh Châu Âu’ từ Nga? Và tại sao di sản Chiến tranh Lạnh này vẫn còn tồn tại, khi Liên Xô và Hiệp ước Warsaw đã không còn tồn tại được 30 năm?
Nói tóm lại, NATO là một trong những công cụ quan trọng nhất của Hoa Kỳ để duy trì vị thế siêu cường hàng đầu trên thế giới, ngay từ đầu thành lập khi NATO được thành lập.
NATO, Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, được thành lập vào năm 1949. Các quốc gia ký kết là Hoa Kỳ và Canada ở phía tây Đại Tây Dương, và ở phía đông là Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg (đã là đồng minh thông qua Hiệp ước Brussels năm 1948) cũng như Iceland, Đan Mạch, Na Uy, Ý và Bồ Đào Nha.
Một trong những huyền thoại về NATO, là sự kết hợp của các ‘nền dân chủ’ chống lại các ‘chế độ độc tài’ xã hội chủ nghĩa ở phương Đông.
Bồ Đào Nha bị nhà độc tài Antonio de Oliveira Salazar cai trị vào năm 1949 trong hơn 15 năm và (giống như Thụy Điển) chưa bao giờ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đức Quốc xã. Bồ Đào Nha của Salazar cũng có quan hệ tuyệt vời với Tây Ban Nha của Franco, nơi Bồ Đào Nha đã hỗ trợ quân đội của Franco trong cuộc nội chiến.
Một quốc gia khác không phải lúc nào cũng dân chủ là Hy Lạp, gia nhập NATO năm 1952 – sau khi Mỹ giúp chính phủ phản động giành chiến thắng trong cuộc nội chiến chống lại các lực lượng chống phát xít do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hy Lạp sau đó tiếp tục là thành viên NATO, ngay cả sau cuộc đảo chính quân sự do Mỹ hậu thuẫn năm 1967. Thổ Nhĩ Kỳ đã là thành viên được một thời gian dài, bất chấp một số cuộc đảo chính quân sự.
Chưa có quốc gia nào bị đuổi khỏi NATO vì nền dân chủ bị đình trệ và chỉ có một quốc gia tự nguyện rời khỏi bộ chỉ huy quân sự của NATO.
Không có chế độ ‘độc tài phát xít’ nào ngoài nước Pháp dưới thời Charles de Gaulle, phản đối vai trò lãnh đạo của Mỹ trong tổ chức này. Pháp cấm bố trí vũ khí hạt nhân nước ngoài trên lãnh thổ của mình, và vào năm 1967, Hoa Kỳ phải trao lại quyền kiểm soát các căn cứ quân sự mà nước này đã quản lý từ năm 1950 và di chuyển 300 máy bay chiến đấu ra khỏi Pháp. Phải đến năm 2009, khi Nicolas Sarkozy làm tổng thống, Pháp mới tái gia nhập hoàn toàn NATO.
Một huyền thoại khác là NATO được thành lập để đối trọng với Hiệp ước Warsaw, nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Hiệp ước Warsaw chỉ ra đời vào năm 1955, sáu năm sau NATO, như một phản ứng trước sự biến động quá rõ ràng lúc bấy giờ, trong mối quan hệ của Hoa Kỳ và của cả các nước đế quốc khác của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Vào tháng 2 năm 1945, trong giai đoạn cuối của Thế chiến hai, các nhà lãnh đạo Đồng minh đã gặp nhau tại Yalta, Crimea – khi đó là một nước cộng hòa Xô Viết tự trị thuộc SFSR (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên Xô) – để thảo luận về số phận của nước Đức sau chiến tranh.
Bầu không khí giữa Winston Churchill, Franklin D. Roosevelt và Stalin về cơ bản là tốt – mặc dù sự khó chịu của người trước với người sau thể hiện rõ qua việc ông ta hút xì gà rất mạnh, đại sứ Liên Xô, Andrej Gromyko, khi đó tại Hoa Kỳ cho biết trong hồi ký của mình.
Churchill hút xì gà và tổng thống Mỹ ốm yếu Roosevelt cũng có mọi lý do để biết ơn sự đóng góp mang tính quyết định tuyệt đối của Liên Xô trong cuộc chiến chống Đức Quốc xã, và điều này đặc biệt dễ nhận thấy ở thái độ tích cực, thiên về ngoại giao hơn của Roosevelt đối với Stalin và Đại sứ Gromyko.
Liên Xô đã chịu tổn thất to lớn trong chiến tranh, với hơn 27 triệu người chết và 70.000 thành phố và làng mạc bị phá hủy. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản đối với Liên Xô về việc Đức bồi thường chiến tranh cho Liên Xô đã bị các phái đoàn Anh và Mỹ trì hoãn, cũng như vấn đề một nước Đức phi quân sự không được phép xây dựng lại quân đội của mình. Và khi các nhà lãnh đạo của các cường quốc chiến thắng gặp lại nhau ở Potsdam, Đức vài tháng sau đó, Hoa Kỳ và Anh đã ít có xu hướng gặp Liên Xô hơn.
Lúc đó Roosevelt đã chết và phó tổng thống Harry S. Truman lên nắm quyền tổng thống. Người đàn ông này, chưa đầy một tuần sau khi hội nghị kết thúc, đã ra lệnh thả bom nguyên tử, đầu tiên ở Hiroshima và 3 ngày sau ở Nagasaki.
Đó cũng là nguyên nhân chính khiến Washington thay đổi giọng điệu trong đàm phán với Liên Xô. Hoa Kỳ đã phát triển loại vũ khí hủy diệt, mà nhân loại biết đến, và chỉ để cho thế giới thấy ai là người chịu trách nhiệm, chính phủ Mỹ đã giết chết hơn 200.000 người Nhật Bản, vốn đã bị đánh bại.
Truman cũng nêu tên các chính sách đặc trưng cho Chiến tranh Lạnh, bắt đầu vào năm 1947 khi ông nhận được sự ủng hộ của Quốc hội để ủng hộ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, và tiếp tục thành lập NATO vào năm 1949. Theo tuyên truyền, NATO sẽ bảo vệ Tây Âu khỏi mối đe dọa bành trướng từ phương Đông (Liên Xô).
Học thuyết Truman tuyên bố rằng, Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào bất cứ nơi nào trên thế giới bị Chủ nghĩa Cộng sản đe dọa, điều mà Truman coi là một ‘âm mưu của thế giới cộng sản’ do Liên Xô lãnh đạo. Nhưng lịch sử đã chỉ ra rằng, đó không gì khác hơn là một thuyết âm mưu tuyên truyền nhằm che giấu động cơ chính của nước Mỹ.
Liên Xô bị tàn phá, hầu như không có kế hoạch mở rộng quân đội sau Thế chiến hai, mà thay vào đó là tình trạng xuất ngũ gia tăng. Hồng quân giảm từ 12 triệu binh sĩ năm 1945 xuống còn 3 triệu binh sĩ, ba năm sau đó.
Sau chiến tranh, rõ ràng là Hoa Kỳ đã vượt qua Vương quốc Anh để trở thành siêu cường hàng đầu thế giới. Ngược lại với Châu Âu bị chiến tranh tàn phá, bộ máy sản xuất của Mỹ hoàn toàn bình yên, không chỉ về mặt kinh tế mà cả quân sự và chính trị, Mỹ hiện dẫn đầu phương Tây trong cuộc ‘thập tự chinh’ chống lại Chủ nghĩa Cộng sản, mười năm sau khi Hitler phát động Chiến dịch Barbarossa (tấn công Liên Xô, biên tập) trước đó.
Một chiến dịch được thực hiện tại nước Mỹ – nơi các nhà văn, diễn viên cấp tiến và các nhân vật văn hóa khác bị đưa vào danh sách đen trong thời kỳ Chủ nghĩa McCarthy những năm 1950 – và trên toàn thế giới.
Như ở Indonesia, chỉ lấy một ví dụ, nơi CIA và Đại sứ quán Mỹ tích cực ủng hộ việc Suharto tàn sát khoảng một triệu đảng viên và những người có cảm tình với Đảng Cộng sản Indonesia vào năm 1965 và 1966, một cuộc diệt chủng ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên.
Các nhà tư bản và chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn có lý do, mặc dù ở vị trí dẫn đầu thế giới, để không hài lòng với những diễn biến trên thế giới. Chỉ 6 tháng sau khi hiệp ước NATO được ký kết, cuộc cách mạng Trung Quốc đã giành chiến thắng và nhà lãnh đạo Quốc dân đảng do Mỹ hậu thuẫn Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn sang Đài Loan.
Với cuộc cách mạng ở Trung Quốc, 1 phần 3 dân số thế giới nằm ngoài ảnh hưởng và sự bóc lột của phương Tây. Một xu hướng càng được củng cố khi các thuộc địa ở Châu Á và Châu Phi ít nhất đã chính thức giải phóng mình khỏi quyền lực thực dân cũ – ngay cả khi phần lớn trong số họ tiếp tục phải chịu sự bóc lột của phương Tây.
Trong bối cảnh toàn cầu này, Chủ nghĩa Cộng sản được coi là mối đe dọa hiện hữu đối với Hoa Kỳ và ‘thế giới tự do’. Và mặc dù Chủ nghĩa Cộng sản có liên quan đến chính trị nội bộ của Mỹ, như nhà sử học Eric Hobsbawm đã nói, các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ có thể giành chiến thắng nhờ những lời hứa “đứng lên chống lại Chủ nghĩa Cộng sản”. Giống như khi John F. Kennedy thắng cử năm 1960.
Nhưng những lời hùng biện và chính trị sâu sắc không phải về mối đe dọa được cho là của Chủ nghĩa Cộng sản thế giới, mà là về việc đảm bảo vị trí thống trị của Mỹ.
Ở đó, NATO trở thành công cụ để đảm bảo ảnh hưởng của Mỹ ở Tây Âu, nhưng không phải là công cụ duy nhất. Tiền thân của EU là một trường hợp khác.
Tổng thư ký đầu tiên của NATO là Lord Hastings Ismay của Anh. Ismay cũng là người đã đặt ra câu nói nổi tiếng rằng mục đích của NATO là ‘ngăn người Nga ở ngoài, người Mỹ ở trong và người Đức bị tiêu diệt’.
Ismay đã được kế nhiệm ở vị trí tổng thư ký bởi nhà dân chủ xã hội người Bỉ Paul-Henri Spaak, người chủ yếu đi vào lịch sử với tư cách là một trong những người sáng lập EU.
Spaak là một trong những động lực thúc đẩy Hiệp ước Rome năm 1958, thành lập EEC (Cộng đồng kinh tế Châu Âu) và là nền tảng của thị trường nội bộ EU.
Hoa Kỳ ủng hộ và tài trợ cho các sáng kiến hội nhập Tây Âu vào khu vực sẽ trở thành EU, và mặc dù mối quan hệ giữa Mỹ và EU không phải lúc nào cũng suôn sẻ kể từ đó – đặc biệt là khi Donald Trump còn là tổng thống – Mỹ, EU và NATO hợp tác chiến lược với phương Đông, bây giờ và sau này.
Trong số 27 quốc gia thành viên hiện tại của EU, 23 quốc gia cũng là thành viên của NATO.
Những lời của Lord Ismay về việc kiềm chế quân Đức nhanh chóng bị lãng quên. Giống như thỏa thuận Potsdam rằng, một nước Đức phi quân sự sẽ không được phép xây dựng lại sức mạnh quân sự của mình.
Năm 1949, Hoa Kỳ, Anh và Pháp tuyên bố vùng chiếm đóng của họ với Cộng hòa Liên bang Đức, và vào năm 1950, thủ tướng mới Konrad Adenauer (một trong những người sáng lập Liên minh Châu Âu) đề nghị các cường quốc phương Tây tận dụng kinh nghiệm của quân đội Đức, những người thực sự có kinh nghiệm chiến đấu với người Nga – tức là các sĩ quan Đức Quốc xã sống sót sau chiến tranh.
Liên Xô, vẫn chính thức có chiến tranh với Đức, vào năm 1952 đã đề nghị với Tây Đức mới một hiệp ước hòa bình bao gồm việc thống nhất nước Đức thành một quốc gia độc lập, có quyền sản xuất vũ khí vì an ninh của chính mình, nhưng không dành cho bất kỳ liên minh nào chống lại bất kỳ quốc gia nào.
Lời đề nghị đó ngày nay cũng bị lãng quên như nạn diệt chủng ở Indonesia. Thay vào đó, Liên Xô bị đổ lỗi là nguyên nhân gây ra sự chia cắt nước Đức và Bức tường Berlin như một biểu tượng của ‘Bức màn sắt’ trên khắp Châu Âu.
Lý do là Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo Adenauer đã từ chối đồng ý với đề xuất của Liên Xô và từ chối một nước Đức thống nhất – và thay vào đó, vào năm 1955, Tây Đức đã trở thành thành viên của NATO.
Một lời đề nghị bị lãng quên khác diễn ra cùng năm tại Geneva, tại cuộc họp của các nhà lãnh đạo của “Big Four” (Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô), nơi phái đoàn Liên Xô đã gây sốc cho những người khác khi tuyên bố rằng Liên Xô đã sẵn sàng gia nhập NATO.
Thủ tướng lúc đó là Nikolay Bulganin lập luận rằng, nếu tổ chức này thực sự nhằm mục đích gìn giữ hòa bình, thì họ không thể từ chối tư cách thành viên của Liên Xô, phải không?
Liên Xô thậm chí chưa bao giờ nhận được câu trả lời chính thức về vấn đề này. Gromyko viết: Các cường quốc NATO không biết cách giải quyết yêu cầu này nên họ đã giấu nó đi.
Ngẫu nhiên thay, tổng thống đương nhiệm của Nga cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự, trước khi ông từ bỏ hy vọng lọt vào vòng vây của các cường quốc phương Tây. Putin đề nghị vào năm 2000 rằng Nga có thể gia nhập NATO, nhưng Madeleine Albright, ngoại trưởng Mỹ, đã phớt lờ ông. Bởi vì làm sao NATO có thể biện minh cho sự tồn tại của mình nếu không có huyền thoại về mối đe dọa từ Nga?
Ai đang nói dối?
Phần còn lại của Chiến tranh Lạnh tiếp tục với cuộc chạy đua vũ trang và triển khai vũ khí hạt nhân ở Châu Âu, đặc biệt là ở Tây Đức. Liên Xô đã nhiều lần đề xuất cấm vũ khí hạt nhân, nhưng Mỹ không quan tâm đến điều đó. Cũng như bởi những đề xuất lặp đi lặp lại của Liên Xô nhằm hạn chế khả năng ‘các quốc gia mới’ gia nhập cả NATO và Hiệp ước Warsaw, và rằng cả hai tổ chức cuối cùng sẽ giải thể.
Thay vào đó, Liên Xô phải tuân theo sự tái vũ trang của Mỹ để duy trì sự cân bằng về khủng bố, với đủ vũ khí hạt nhân của cả 2 bên để tiêu diệt toàn bộ sinh mạng con người.
Bất chấp sự ngờ vực giữa các bên, hai siêu cường vẫn cố gắng thống nhất được một số thỏa thuận quan trọng, mặc dù còn hạn chế: Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân 1963, cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân trong khí quyển, không gian và dưới nước; Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 nhằm ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt nhân; lệnh cấm đặt vũ khí hạt nhân dưới đáy biển năm 1973; và hai hiệp định SALT năm 1972 và 1979 về hạn chế vũ khí chiến lược.
NATO là nền tảng đối với Mỹ trong việc triển khai vũ khí hạt nhân và thiết lập các căn cứ quân sự ở Châu Âu. Ngược lại, các đồng minh NATO trong Chiến tranh Lạnh đã không tham gia vào cuộc phiêu lưu chiến tranh của Mỹ – cuộc chiến dài nhất và tàn khốc nhất ở Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam đã làm kiệt quệ nền kinh tế Mỹ, và cùng với sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods (đồng đô la Mỹ được neo theo vàng với tỷ giá cố định) và cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970, Mỹ đã mất đi ‘phần lớn’ vị thế dẫn đầu về kinh tế trên thế giới.
Các nền kinh tế được Mỹ hỗ trợ sau Thế chiến hai không chỉ trở thành đối tác cấp dưới mà còn là đối thủ cạnh tranh của Mỹ, cụ thể là EU và Nhật Bản.
Tại Nhật Bản, CIA đã chi hàng triệu đô la trong những năm 1950 và 1960 để xây dựng Đảng Dân chủ Tự do nhằm chống lại ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Nhật Bản.
Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã xây dựng các căn cứ quân sự trên khắp thế giới, khoảng 800 căn cứ mà Mỹ đã thiết lập cho đến ngày nay.
Cùng lúc đó, nền kinh tế trì trệ của Liên Xô dưới thời Leonid Brezhnev thậm chí còn gặp khủng hoảng tồi tệ hơn cả Mỹ, và cuộc chạy đua vũ trang ngày càng tăng của Washington cũng không giúp ích được gì.
Năm 1978, NATO quyết định tăng đáng kể chi tiêu quân sự của các nước thành viên, và vào năm 1979, chính phủ Jimmy Carter ở Hoa Kỳ đã đưa ra quyết định vừa tăng ngân sách quân sự của Mỹ lên mức cao nhất từ trước đến nay, vừa đặt vũ khí hạt nhân mới ở Châu Âu.
Dưới thời Ronald Reagan, đầu tư quân sự tăng hơn nữa và ít nhất là một yếu tố góp phần dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của toàn bộ hệ thống Xô Viết, mặc dù các lý do bên trong Liên Xô là chính yếu.
Đầu những năm 1990, cả Liên Xô lẫn Hiệp ước Warsaw đều không còn tồn tại.
Hết phần 1!
Phần 2: NATO, Từ Chống Khủng Bố Đến Thống Trị Thế Giới (Phần 2)