Trong bài phát biểu đầu tiên sau cuộc tấn công của Hamas vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, tổng thống Joe Biden khẳng định Hoa Kỳ đã đưa ra sự hỗ trợ “vững chắc và không lay chuyển” cho Israel, “giống như chúng tôi đã làm kể từ thời điểm Hoa Kỳ trở thành đối tác của Israel, quốc gia đầu tiên công nhận Israel, 11 phút sau khi thành lập, 75 năm trước” (năm 1948).
Thề tiêu diệt Hamas, Israel đã phát động một cuộc chiến ở Gaza mà tính đến cuối tháng 11 năm 2023 đã giết chết hơn 14.000 người Palestine. Cuộc giao tranh cũng đã phá hủy phần lớn Gaza và khiến khoảng 70% dân số ở đây phải di dời.
Israel, với sự hậu thuẫn của Mỹ, đã không chú ý đến lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức hoặc yêu cầu của Liên Hợp Quốc ngừng nhắm mục tiêu vào dân thường. Chính quyền Biden dường như đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn tạm thời, cũng như trao đổi con tin và tù nhân giữa Israel và Hamas.
Tôi dạy các khóa học về chính trị Trung Đông và xung đột Ả Rập-Israel, bao gồm xung đột liên kết giữa Israel và Palestine và xung đột giữa Israel và các quốc gia Ả Rập.
Nguồn gốc của mối quan hệ Mỹ-Israel có từ trước năm 1948 và cung cấp bối cảnh cho mối quan hệ từ lâu được coi là mối quan hệ “đặc biệt” giữa 2 nước – một mối quan hệ hiện có vẻ quan trọng đối với việc Israel theo đuổi cuộc chiến ở Gaza.
Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ nhận thức rằng, giá trị chiến lược của Israel là lý do biện minh cho mối quan hệ đặc biệt. Trong khi Israel có những lợi ích riêng của mình liên quan đến cuộc xung đột Ả Rập-Israel, thì Quốc hội Mỹ ủng hộ và các nhà vận động hành lang đã trình bày những lợi ích này nhất quán với lợi ích của Mỹ.
Kinh thánh, Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, văn hóa đại chúng, việc tưởng nhớ nạn diệt chủng Holocaust sau năm 1967 và cách tiếp cận chung ở Mỹ và Israel đối với đất đai và người dân bản địa, đều đã dẫn đến sự biến đổi của người Do Thái và người Israel từ “người ngoài” thành “người trong cuộc” ở Mỹ
Mối quan hệ văn hóa và chính trị này là nguyên nhân đằng sau sự hỗ trợ vô điều kiện hiện tại của Hoa Kỳ dành cho Israel, cũng như thực tế là Hoa Kỳ được coi là có liên quan sâu sắc đến các hành động của Israel trong và ngoài khu vực.
Nhưng kể từ khi tổng thống Harry Truman công nhận Israel vào năm 1948, các chính sách của tổng thống cho thấy mối quan hệ Mỹ-Israel không phải lúc nào cũng “vững chắc”.
Xem thêm: Sau Cuộc Chiến Giữa Israel Và Hamas: Thế Giới Sẽ Không Còn Như Xưa
Israel: Hoa Kỳ và Chủ nghĩa phục quốc Do Thái
Với đa số người Ả Rập sinh sống trong hơn 1 thiên niên kỷ cho đến năm 1948, vùng lãnh thổ lúc đó được gọi là Palestine là một phần của Đế chế Ottoman từ năm 1517 cho đến khi Anh chiếm được nó trong Thế chiến thứ nhất.
Phong trào phục quốc Do Thái đã đạt được mục tiêu quan trọng vào tháng 11 năm 1917, khi Anh, vì lý do chiến lược và tôn giáo, ban hành Tuyên bố Balfour ủng hộ một ‘ngôi nhà quốc gia’ cho người Do Thái ở Palestine.
Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tán thành tuyên bố này, lẫn quyền lực hành chính của Anh do Hội Quốc Liên phê chuẩn đối với Palestine.
Ở Palestine, Anh sử dụng quyền hành chính của mình, dưới cái gọi là Ủy trị đối với Palestine, để thúc đẩy dự án ‘Chủ nghĩa phục quốc Do Thái’.
Sự trỗi dậy của Hitler và việc Hoa Kỳ tham gia Thế chiến thứ 2 đã khiến những người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái ở Mỹ vào năm 1942 áp dụng Chương trình Biltmore, kêu gọi người Do Thái nhập cư không hạn chế vào Palestine và biến lãnh thổ này thành một nhà nước Do Thái.
Việc tiết lộ toàn bộ quy mô tội ác của Đức Quốc xã đã thúc đẩy sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, chuyển trung tâm của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái một cách hiệu quả từ London sang Washington.
Cương lĩnh của Đảng dân chủ năm 1944 ủng hộ việc “mở cửa Palestine cho người Do Thái nhập cư không hạn chế”, cũng như thành lập một nhà nước Do Thái. Nhưng lo ngại, những nỗ lực chiến tranh của Mỹ sẽ bị tổn hại, tổng thống Franklin Roosevelt đã viết thư cho một số chính phủ Ả Rập ngay trước khi ông qua đời vào năm 1945 rằng, sẽ không có hành động nào đối với Palestine “điều này có thể tỏ ra thù địch với người dân Ả Rập”.
Xem thêm: Xung Đột Israel – Palestine: Quá Khứ, Hiện Tại Và Tương Lai
Israel, Hoa Kỳ và Chiến tranh Lạnh
Tổng thống Harry Truman có thiện cảm với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái vì ông được nuôi dạy theo đạo Tin lành. Ông tán thành Kế hoạch phân chia Palestine năm 1947 của Liên Hợp Quốc, nhằm thành lập một nhà nước Ả Rập (Palestine) và một nhà nước Do Thái (Israel), và bất chấp sự phản đối từ bên trong chính quyền, ông đã công nhận Nhà nước Israel vào ngày 14 tháng 5 năm 1948.
Tuy nhiên, Truman từ chối gửi vũ khí cho 2 bên trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, vì ông coi cuộc xung đột là nguồn gốc của sự bất ổn khi đối mặt với mối đe dọa cộng sản đang nổi lên. Trong cuộc chiến đó, 750.000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất , trở thành người tị nạn khỏi vùng đất trở thành Israel.
Tổng thống Dwight Eisenhower cũng tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập của Liên Xô vào Trung Đông và cố gắng duy trì sự công bằng đối với cuộc xung đột Ả Rập-Israel. Ông thậm chí còn đe dọa cắt mọi viện trợ chính thức, đồng thời trục xuất Israel khỏi Liên Hợp Quốc để buộc Israel phải rút khỏi lãnh thổ Ai Cập – Sinai, vào năm 1957.
Xung đột và mối quan hệ đặc biệt Mỹ-Israel
Tổng thống John F. Kennedy đặt ra thuật ngữ “mối quan hệ đặc biệt” để nói về sự gắn kết giữa hai nước.
Kennedy hy vọng rằng, để đổi lấy vũ khí phòng thủ của Mỹ, Israel sẽ ủng hộ kế hoạch của ông, dựa trên Nghị quyết 194 của Liên Hợp Quốc, kêu gọi hồi hương hoặc bồi thường cho những người tị nạn Palestine và cho phép ‘thanh tra hiệu quả chương trình hạt nhân của nước này. Israel chấp nhận vũ khí của Mỹ nhưng từ chối hợp tác trong các vấn đề khác và cả hai vấn đề này đều không được thảo luận lại.
Tổng thống Lyndon Johnson coi Israel là tài sản chiến lược và gửi cho nước này những vũ khí tấn công tiên tiến. Johnson ủng hộ cuộc tấn công của Israel vào Ai Cập, Syria và Jordan trong cuộc chiến tháng 6 năm 1967, khi Israel lần đầu tiên chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza.
Johnson cũng tán thành Nghị quyết 242 của Liên Hợp Quốc vào tháng 11 năm 1967, trong đó quy định việc Israel rút quân phải được các quốc gia Ả Rập công nhận và ký kết các hiệp ước hòa bình với Israel.
Chiến thắng nhanh chóng của Israel đã biến đổi mối quan hệ Mỹ-Israel, nâng Israel trở thành một thành phần quan trọng trong bản sắc Do Thái của Mỹ và củng cố các chính sách thân Israel ở Washington.
Xem thêm: Cuộc Chiến Yom Kippur 1973, Xung Đột Do Thái Và Thế Giới Ả Rập
Tổng thống Richard Nixon đã tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự cho Israel, vì ông chấp nhận một cách thiếu phê phán tuyên bố của Israel rằng, Liên Xô là nguyên nhân chính gây căng thẳng ở Trung Đông và vì Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973.
Kể từ đó, các gói viện trợ hào phóng đã trở thành thông lệ: Trong những năm gần đây, viện trợ của Mỹ cho Israel vào khoảng 3 tỷ USD đến 4 tỷ USD hàng năm, tổng cộng gần 318 tỷ USD kể từ Thế chiến thứ hai, bao gồm cả vũ khí.
Trong khi tổng thống Jimmy Carter làm trung gian cho hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel năm 1979, thì chính quyền Ronald Reagan sau đó đã rời bỏ tiến trình hòa bình tích cực và, trong trọng tâm lấy Liên Xô làm trung tâm, đã ký với Israel bản ghi nhớ về hợp tác chiến lược, nâng mối quan hệ lên một tầm chiến lược mới.
Chính quyền ủng hộ cuộc xâm lược Lebanon năm 1982 của Israel, từ chối coi các khu định cư ở Bờ Tây là bất hợp pháp, ký kết với Israel và hiệp định thương mại tự do đầu tiên của Hoa Kỳ và chỉ định Israel vào năm 1987 là “một đồng minh lớn không thuộc NATO”.
Tổng thống Bill Clinton đã làm trung gian cho Hiệp định Oslo, trong đó Israel đồng ý rút khỏi các khu vực ở Bờ Tây và Dải Gaza, đồng thời nhượng lại một số quyền kiểm soát cho một thực thể chính trị mới, ‘Chính quyền Palestine’.
Nhưng Clinton đã không đạt được một thỏa thuận lâu dài giữa Palestine và Israel, và chính quyền của ông, theo một nhà đàm phán Mỹ, đã đóng vai trò là “luật sư của Israel, phục vụ và điều phối với người Israel, gây tổn hại cho các cuộc đàm phán hòa bình thành công”.
‘Tiến trình hòa bình’ và ‘cuộc chiến chống khủng bố’
Sau ngày 11/9 năm 2001, tổng thống George W. Bush đã chấp nhận câu chuyện của Israel rằng, nước này đang tiến hành cuộc chiến chống khủng bố của riêng mình và điều kiện của nước này là phải thay đổi lãnh đạo Palestine trước bất kỳ cuộc đàm phán nào tiếp theo.
Nhưng cả lời kêu gọi thành lập một nhà nước Palestine của Bush cũng như cuộc bầu cử năm 2005 của Mahmoud Abbas làm tổng thống ‘Chính quyền Palestine’ đều không dẫn đến một thỏa thuận.
Năm 2006, chính quyền Bush đã thúc đẩy và tán thành sự tham gia của Hamas vào các cuộc bầu cử lập pháp của người Palestine.
Khi Hamas giành chiến thắng và thành lập chính phủ mới, cả Israel và Mỹ đều từ chối đối phó, áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với ‘Chính quyền Palestine’ và tìm cách mở rộng sự chia rẽ giữa Hamas và đảng Fatah của Abbas.
Bush thậm chí còn ủng hộ một kế hoạch bí mật nhằm châm ngòi cho cuộc nội chiến giữa người Palestine, trên thực tế đã dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự giữa Hamas-Fatah. Cuộc chiến đó kết thúc với việc Hamas tiếp quản Gaza, dẫn đến việc Israel áp đặt lệnh phong tỏa Gaza vào năm 2007.
Tổng thống Barack Obama ủng hộ các cuộc tấn công của Israel vào Gaza nhưng không loại bỏ được mối đe dọa quân sự của Hamas. Về mặt ngoại giao, Obama miễn cưỡng tham gia trực tiếp, trong khi Israel tiếp tục từ chối đóng băng vĩnh viễn việc xây dựng các khu định cư .
Hiệp định Abraham của tổng thống Donald Trump và các cuộc thảo luận gần đây dưới thời chính quyền Biden nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao Israel-Saudi cho rằng xung đột Ả Rập-Israel có thể được giải quyết, mà không cần giải quyết xung đột Palestine.
Nhưng cuộc chiến hiện tại thách thức giả định đó và chứng minh rằng sự hỗ trợ hiện tại của Mỹ dành cho Israel thực sự là “vững chắc và không lay chuyển”.