Kim Dung Giữa Đời Tôi – Vũ Đức Sao Biển

Vì sao tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung lại được nhiều người trên khắp châu Á say mê? Thậm chí, tác phẩm của ông còn được đưa vào chương trình giáo dục trung học và đại học ở Đài

Kim Dung giữa đời tôi

Vì sao tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung lại được nhiều người trên khắp châu Á say mê? Thậm chí, tác phẩm của ông còn được đưa vào chương trình giáo dục trung học và đại học ở Đài Loàn.

Với mình hay nhiều thế hệ 6x, 7x và 8x lớn lên cùng với những bộ phim kiếm hiệp, nhiều bữa quên ăn vì mê phim kiếm hiệp, nên hình ảnh nhà văn Kim Dung đã tạo nên một dấu ấn rất đặc biệt.

Nhưng để hiểu một cách sâu sắc 12 tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thì, phải nhắc đến Vũ Đức sao Biển. Có thể nói, ông là nhà “Kim Dung học”, vì nhiều bài phân tích sâu sắc mang tính ‘triết luận’ đối với những tác phẩm của Kim Dung.

Nếu đọc sách “Kim Dung giữa đời tôi” của Vũ Đức Sao Biển, bạn sẽ cảm nhận nhiều hơn về cái hay, cái đặc sắc của Kim Dung.

Kim Dung thường sử dụng bối cảnh lịch sử và văn hóa Trung Quốc để xây dựng những tác phẩm của mình. Chẳng hạn, tác phẩm Thiên Long Bát Bộ lấy bối cảnh triều đại nhà Tống, với sự tương tranh của 6 thế lục phong kiến: Tống, Đại Lý, Khiến Đan, Tây Hạ, Thổ Phồn và Yên.

Tác phẩm “Lộc Đỉnh Ký” được đặt vào bối cảnh lịch sử nhà Thanh, thời vua Khang Hy, với các thế lực chống nhà Thanh là hậu duệ của nhà Minh, bao gồm Đường Vương, Quế Vương, và Thiên Địa Hội. 

Một điều đặc biệt, Kim Dung đã kết hợp triết học, y học, võ học Trung Quốc để viết về võ công của các môn phái. Rõ ràng, Kim Dung rất am hiểu những lĩnh vực này.

Nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy rằng, triết lý võ học của Kim Dung chính là, chữ “võ” không bằng chữ “hiệp”. Các nhân vật võ hiệp của ông thể hiện triết lý hành hiệp cứu đời, vì cuộc sống, cứu vớt kẻ xa cơ – kẻ yếu thế, bảo vệ công lý, mang đến hòa bình cho xã hội.

Đạo Phật trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Đối với các tôn giáo, Kim Dung rất ngưỡng mộ và kính trọng đạo Phật. Đạo Phật xuất hiện trong tác phẩm của ông với hình ảnh của các nhà sư Thiếu Lâm và tư tưởng Phật giáo được ông hết đề cao là Thiền tông, 1 trong 10 tông phái của Phật giáo. Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung, người ta biết đến đạo Phật qua hình ảnh chùa Thiếu Lâm, tại tỉnh Hồ Nam – Thiêu Lâm Tự.

Dưới ngòi bút của Kim Dung, những nhà sư Thiếu Lâm là những nhà sư chuyên hành hiệp cứu người, cứu đời, luôn xả thân vì đại nghĩa, chống lại các thế lực ngoại xâm như Khiết Đan, nước Kim, Mông Cổ, Tây Hạ. Các nhà sư luôn quên thân mình để bảo vệ bờ cõi Trung Hoa. Có thể nói, nhà sư Thiếu Lâm luôn có mặt trong những tình huống nguy kịch, trở thành biểu tượng về vẻ đẹp của võ lâm Trung Hoa.

Kim Dung thường sử dụng cụm từ “Thái Sơn Bắc Đẩu” khi nói về phái Thiếu Lâm. Các nhà sư Thiếu Lâm có đức cao vọng trọng, thấm nhuần tinh thần Phật giáo, giữ gìn giới luật rất cao và say mê luyện võ để bảo vệ công lý.

Hình bóng những chiếc tăng bào màu vàng, màu xám, màu nâu luôn xuất hiện trong tác phẩm của Kim Dung, từ Thiểm Tây tới Cam Túc, từ Vân Nam tới Chiết Giang, từ Nhạn Môn Quan tới Sơn Hải Quan.

Từ Thiên Long Bát Bộ, Ỷ thiên Đồ Long Ký, hay Tiếu Ngạo Giang Hồ, giữa chốn giang hồ hung hiểm, các nhà sư đắc đạo vẫn ung dung ngồi tọa thiền thuyết Pháp hoa kinh, Kim cang kinh, Niêm hoa kinh.

Trong tiểu thuyết của Kim Dung cũng có một hình thái Phật giáo khác được xem là bàng môn tả đạo.

Đó là đạo Phật của các nhà sư Thiên Trúc, Thổ Phồn, Tây Tạng, Mông Cổ mang xuống Trung Nguyên.

Đó là giáo chủ Huyết đao môn của Mật tông Tây Tạng (Liên Thành Quyết), Ba La Tinh, Triết La Tinh người Ấn Độ, Cưu Ma Trí người Thổ Phồn (Thiên Long Bát Bộ).

Do hạn chế liên quan đến quan điểm dân tộc, Kim Dung đã xây dựng những nhân vật nhà sư ‘ngoại nhập’ này, như những người tàn ác, muốn ăn cắp võ công bí lục, hãm hiếp gái tơ, phá hoại nền hoà bình của Trung Hoa.

Phái sư áo đỏ của Mật Tông Tây Tạng bị Kim Dung xem nhẹ nhất.

Trong Lộc Đỉnh ký họ là những người âm mưu đánh vào Ngũ Đài Sơn để bắt vua Thuận Trị gây áp lực chính trị với vua Khang Hy. Những Lạt Ma của Tây Tạng như Đạt Lai Hoạt Phật, Ban Thiền Hoạt Phật và Tang Kết Hoạt Phật cũng bị Kim Dung xem là không đứng đắn.

Phái Võ Đang

Phái Võ Đang do Trương Tam Phong (Trương Quân Bảo) sáng lập là một môn phái tiêu biểu cho tư tưởng Lão Trang tức Đạo giáo.

Căn cứ trên chủ trương “vô vi thanh tịnh” của Đạo giáo, phái Võ Đang là một võ phái “vô vi nhi vô bất vi” (không làm nhưng không có gì là không làm).

Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký và Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã dành nhiều cảm tình đặc biệt cho các đạo gia của phái Võ Đang. Dưới ngòi bút của Kim Dung, những đạo sĩ hay những đệ tử tục gia của Võ Đang là những con người luôn hành hiệp trượng nghĩa và yêu nước nồng nàn. Một nhân vật tiêu biểu cho Đạo giáo Võ Đang là Trương Tam Phong, được tác giả gọi một cách kính trọng là Chân nhân.

Võ công phái Võ Đang đặt trên nền tảng của học thuyết Âm Dương, là một dạng của võ công huyền môn chánh tông. Một số công phu của Võ Đang được lưu truyền đến bây giờ như Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm Pháp. Nếu võ công Thiếu Lâm chú trọng dương cương, nhanh mạnh thì võ công Võ Đang chú trọng âm nhu, uyển chuyển – “Nặng tựa thái sơn nhưng cũng nhẹ tựa lông hồng”.

Phái Nga Mi

Phái Nga Mi – do Quách Tương, con gái Quách Tĩnh sáng lập – là một nhánh khác của Phật giáo Trung Quốc. Vì Quách Tương có ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà nên dù lập ra môn phái chính đạo, cũng ăn chay niệm Phật, đệ tử chủ yếu là nữ ni xuất gia.

Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã xây dựng một hình ảnh chương môn Nga Mi là Diệt Tuyệt sư thái và chỉ cái tên thôi, ta cũng hình dung ra được mức độ khốc liệt của vị chưởng môn này: Diệt hết, không chừa một ai.

Trong thực tế Nga Mi là tên một ngôi chùa danh tiếng của Trung Quốc, hình thành trên 1000 năm, là nơi tu hành của nhiều sư nữ – đạo cao đức trọng.

Quan điểm tôn giáo trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Một cách khái quát, khi xây dựng những tôn giáo, môn phái, bang hội trong truyện võ hiệp, Kim Dung đã hé mở cho chúng ta thấy quan điểm “tam giáo đồng nguyên” của ông.

Phật giáo có Thiếu Lâm, Nga Mi, Hằng Sơn. Đạo giáo theo tư duy Lão Trang có Võ Đang, Tiêu Dao, Thiên Sơn. Nho giáo có Thiên Địa hội, một tổ chức nhập thể và nhập thế. Kim Dung cũng đồng thời tôn trọng những tư tưởng tôn giáo ngoại nhập.

Ngoài tình cảm dành cho Bái hỏa giáo Ba Tư, ông còn nhắc tới Hồi giáo, Thiên chúa giáo (thông qua 2 nhân vật người Tây dương là Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng) với những tình cảm chân thật, nhận định trung thực về bản chất lương thiện của các tôn giáo.

Ông cũng xây dựng các môn phái khác của dân tộc Trung Hoa, khi đưa ra một số bang phái khác, dù hoạt động của họ khi tà – khi chính, không thuộc hệ tư tưởng cụ thể như các phái: Lao Sơn, Không Động, Thanh Thành.

Triết lý xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Tất cả các tôn giáo, bang hội được xây dựng trong tác phẩm Kim Dung đều có kẻ tà – người chánh, người tốt – kẻ xấu. Có người đưa ra luận điểm cho rằng: Kim Dung muốn dung hoà, trộn lẫn 2 thái cực của chính và tà, thiện và ác.

Tôi cho rằng đó là một nhận định mang tiếng võ đoán. Thực ra, Kim Dung muốn nói rằng, những môn phái được cho là tạo thì chưa chắc là tà đạo, ngược lại chính đạo thì chưa chắc là chính đạo.

Đúng như vậy, những nhân vật đức cao vọng trọng như Nhạc Bất Quần, Thích Trường Phát, Vạn Khuê, cái gọi là chính phái là những kẻ thủ đoạn, lưu manh và tất yếu phải nhận sự trừng phạt.

Những con người xuất thân từ bàng môn tả đạo, từ tà phái như Điền Bá Quang, Bất Giới, Tổ Thiên Thu, Lão Đầu Tử, Trương Tam, Lý Tứ lại là những chính nhân quân tử, những con người trung thực.

Hành động phân biệt chính tà không thể bị nhầm lẫn với hành động dung hoà chính tà. Tác giả muốn cho chúng ta hiểu rõ hơn về chính – tà và đừng nhận định chính tà, thiện ác theo cái danh bên ngoài.

Những thuật ngữ đã đi vào đời sống

Nhiều từ ngữ khác trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung thâm nhập đời sống thực một cách tự nhiên. Những người ăn xin thì được gọi là “Cái bang”.

Từ “Ma giáo” được Kim Dung sử dụng cũng khá thú vị. Trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung hay nhắc đến Ma giáo, phát xuất từ chữ Manichéisme (Bái hỏa giáo, Minh giáo).

Người Trung Hoa phiên âm là Ma Ni giáo, gọi mãi, người ta lượt bỏ chữ Ni để chỉ còn Ma giáo. Đi vào xã hội Việt Nam, chữ “ma giáo” (không viết hoa) dùng để chỉ đặc điểm của một người có hành vi lật lọng, phản bội, xấu xa: “Anh đừng có chơi ma giáo với tôi”, “ông ấy làm ăn rất ma giáo”, “con người ma giáo ấy – chẳng được ai ưa”.

Một số từ ngữ đặc biệt trong tiểu thuyết võ hiệp của ông được xã hội hóa, đi vào cuộc sống, thì, vẫn còn mãi trong ‘văn nói’ của người Sài Gòn, người miền Nam. Tuỳ theo cách dùng, tuỳ theo thời điểm, nghĩa của những từ đó có thể thay đổi ý nghĩa.

Yếu tố lịch sử trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Một tác phẩm văn học chưa bao giờ là một tác phẩm sử học. Tác phẩm văn học được viết bởi nhà văn, tác phẩm sử học được viết bởi những quan sử, mà đời Hán gọi là Thái sử lệnh.

Tác phẩm văn học được xây dựng từ những khả năng hư cấu lãng mạn, tác phẩm sử học dựa trên những sự kiện lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng khéo léo, đưa những yếu tố lịch sử vào tác phẩm văn học thì tác phẩm văn học hấp dẫn hơn và hiện thực hơn.

Đó là đặc điểm của một số bộ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Ông đã đưa yếu tố lịch sử vào văn học. Và xa hơn, ông dùng tác phẩm văn học để đặt lại một số vấn đề lịch sử.

Ai cũng hết lời ca ngợi Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương, tức Minh thái tổ, làm vua Trung Hoa từ năm 1368 đến năm 1398, được coi là người anh hùng của phong trào kháng Nguyên, người có công bậc nhất thiên hạ giành lại đất nước Trung Hoa. Thế nhưng, qua Ỷ thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã buộc người đọc phải nhìn lại đúng bản chất của Chu Nguyên Chương.

Xuất thân từ nông dân, Chu Nguyên Chương đã nhân lúc An Huy đói kém, nổi lên làm giặc cướp, rồi đi tu ở chùa Hoàng Giác.

Trộm một con bò từ một gia đình giàu có, rồi làm thịt nấu ăn, bị đuổi bắt, Chu Nguyên Chương đã dùng vũ lực bóp miệng 2 gia nhân buộc họ phải ăn lông bò.

Hành vi như vậy không phải ai cũng có thể làm được. Chu Nguyên Chương gia nhập Minh giáo (Manichéisme) Trung Hoa, lãnh đạo đội quân Hoài Tứ. Trước khi cuộc khởi nghĩa Minh giáo thành công, Chu Nguyên Chương giết thủ lĩnh của mình là Hàn Sơn Đồng, sau đó lên nắm quyền chỉ huy cuộc khởi nghĩa.

Trong Ỷ thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã mô tả nghĩa quân Minh giáo đón giáo chủ Trương Vô Kỵ, Chu Nguyên Chương tạ ơn giáo chủ. Thế nhưng, chính thuộc hạ Chu Nguyên Chương đã bỏ thuốc độc vào bình rượu cho Vô Kỵ và Triệu Mẫn uống rồi xiềng khoá hai người, giam vào đại lao.

Nhờ thanh kiếm Ỷ thiên (bị gãy), Vô Kỵ đã chặt xiềng, dẫn Triệu Mẫn lặng lẽ ra đi. Con người thủ đoạn, phản bạn, bất trung với cấp trên như vậy đã lên làm vua khai sáng triều Minh ở Trung Hoa. Về sau, để bảo vệ cho quyền lực họ Chu, Chu Nguyên Chương đã sát hại những người cùng ông ta vào sinh ra tử. Ông ghét văn chương, đến nỗi chỉ cần đọc một chữ nghi ngờ có ý giễu mình là lập tức giết chết.

Kim Dung viết Lộc Đỉnh Ký là một cách đối chiếu lịch sử, giúp cho hàng tỷ đồng bào của ông có cơ hội nhìn lại các ông vua của triều Minh – dòng dõi Hán tộc và các ông vua triều Thanh – dòng dõi Di Địch trong bốn rợ (Tứ di).

Phong trào phản Thanh phục Minh trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Có rất nhiều phe phái trong phong trào phản Thanh phục Minh.

Phe thì ủng hộ Đường, phe thì ủng hộ Quế, phe nào cũng chỉ nhận mình mới là chính thống. Điều đó nói lên được thực chất của các phong trào phản Thanh phục Minh cuối thế kỉ 17 ở Trung Hoa: Những lực lượng ô hợp, không nêu lên được một khẩu hiệu rõ ràng, một ngọn cờ chính thống.

Đối lập với họ là vua Khang Hy, với tài trí thông minh, đức độ. Con người xuất thân từ dòng dõi Di Địch đó đã biết chia rẽ các lực lượng chống đối, áp dụng thủ pháp có nhu, có cương để cai trị thiên hạ, thể hiện lòng nhân từ và tư tưởng đại đoàn kết để thu phục nhân tâm.

Nhà vua thiếu niên đã nghiên cứu sử sách Trung Hoa, rút ra những bài học để tránh, đi theo cái vương đạo mà bậc “minh quân đã đi”. Đối với quân Mông Cổ, Tây Tạng, Nga La Tư, Khang Hy có đối sách ngoại giao rõ ràng.

Chính vì vậy khi Ngô Tam Quế dựng lên chiêu bài “hưng Minh thảo Lỗ” ở Vân Nam, phát hịch kể tội nhà Thanh và Khang Hy, thì, không có lực lượng nào ủng hộ Ngô Tam Quế cả.

Kim Dung là một nhà văn chứ không phải là một nhà sử học. Cách đặt lại vấn đề lịch sử trong tác phẩm của ông cũng rất văn học: Không cay cú kết án, không hồ hởi ca ngợi. Ông chỉ nhẹ nhàng trình bày sự kiện.

Trong Lộc Đỉnh ký, khi Kim Dung mượn lời của Lữ Lưu Lương giải thích cho con trai nghe về hai từ “trục lộc” (đuổi hươu). Con hươu ví với thiên hạ, gồm có đất đai và dân chúng.

Khương Thái Công tâu với Văn Vương: “Lấy thiên hạ như đuổi bắt con hươu làm thịt chia nhau mà ăn. Có khi nhiều người cùng ăn, có khi một người ăn hết”.

Ông dẫn lời trong Hán thư: “Nhà Tần để sổng con hươu, thiên hạ tranh nhau bắt”.

Từ khái niệm “hươu” (lộc), Kim Dung đưa đến khái niệm “vạc” (đỉnh).

Đỉnh là cái vạc cao, có ba chân, dùng để nấu thịt (hươu) mà ăn. Sau đó, người ta dùng đỉnh để làm một hình cụ.

Lịch Sinh bị Tề vương Điền Quảng bỏ vào vạc dầu luộc chín khi Hàn Tín đánh vào Lâm Tri.

Nối “lộc” và “đỉnh” lại có khái niệm lộc đỉnh. Trong địa danh Trung Quốc, có núi Lộc Đỉnh ở miền bắc sông Hắc Long, đọc theo âm Mãn Châu là Hô Mã Nhĩ Oa Tập Sơn.

Kim Dung đã nắm tay độc giả dẫn vào thế giới Lộc Đỉnh Ký, bộ tiểu thuyết ông viết ra trong khoảng 1969 – 1972 tự nhiên như thế. Cách dẫn nhập từ khái niệm lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của Kim Dung không phải ai cũng làm được!

Nghệ thuật và thi ca trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Mỗi một nhà văn viết tiểu thuyết đều có một nghệ thuật riêng.

Nghệ thuật tiểu thuyết của Kim Dung là nghệ thuật tiểu thuyết võ hiệp, viết về bọn hào sĩ giang hồ chuyên sống trên đường đao, mũi kiếm. Nghệ thuật ấy vừa kế thừa thủ pháp truyền thống của các nhà văn tiền bối, vừa cách tân theo phong cách hiện đại.

Bàn về tiểu thuyết võ hiệp của ông là bàn về sự kế thừa và sự cách tân.

Trước hết, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là tiểu thuyết chương hồi, kế thừa thủ pháp căn bản, truyền thống của tiểu thuyết Minh – Thanh.

Chẳng hạn, bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ dày 1692 trang (Minh Hà xã, Hong Kong xuất bản) gồm 40 chương. Trước mỗi chương hồi có một bức vẽ minh hoạ, lấy ý chính của chương hồi làm chú thích.

Trong văn xuôi của tiểu thuyết, Kim Dung thường đưa vào những đoạn trích dẫn thi ca, từ phú và đôi khi là các văn kiện lịch sử mà ông sưu tầm được.

Thơ ca trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung có thể là thơ ca do chính ông sáng tác. Bản thân Kim Dung là một nhà thơ và cái thi vị ‘Đường thi’ trong thơ của ông rất ‘đậm đà’ và lãng mạn.

Quan hệ ngoại giao

Trong Lộc Đỉnh Ký, khi bàn về quan hệ Trung – Nga, Kim Dung đưa luôn một đoạn trong bức thư của Sa Hoàng gởi cho vua Khang Hy.

Những hàng binh Nga trong cuộc chiến tranh biên giới được đưa về Bắc Kinh. Vua Khang Hy trọng dụng họ, phiên chế thành một lực lượng quân sự đặc biệt trong Thanh binh, gọi là Nga La Tư tá lĩnh. Khi viết về đoạn này, Kim Dung theo sát tư liệu trong Thanh sử cảo của Lang Viên.

Đánh giá về Kim Dung

Nhà nghiên cứu Nghiêm Gia Viêm của Đại học Bắc Kinh ca ngợi văn phong của Kim Dung, cho rằng Kim Dung đã nâng văn chương thông tục lên thành thứ văn chương thanh nhã.

Tại sao vậy? Kim Dung viết về bọn hào sĩ giang hồ, về những người bình thường Trung Quốc cho nên văn chương luôn luôn có tiếng chửi.

Văn chương của Kim Dung cũng phong phú các thành ngữ, tục ngữ Trung Quốc: “Lá rụng về cội”, “Hạ đồ đao xuống là thành Phật”, “Biển khổ không bờ, quay đầu thấy bến”, “Non xanh còn đó, nước biếc vẫn đây, hẹn ngày gặp gỡ”.

Những thành ngữ, tục ngữ thông dụng ấy được đặt vào đúng văn cảnh, vào từng tình huống, tạo ra một giá trị nghệ thuật đặc sắc. Người ít học đọc Kim Dung cũng thấy thích, mà người học cao đọc Kim Dung cũng thấy thích.

Tác phẩm của ông vừa mang tính quần chúng rộng rãi vừa mang tính bác học cao nhã.

Nhưng thủ pháp cao cường nhất của Kim Dung vẫn là kĩ thuật xây dựng cốt truyện.

Những bộ tiểu thuyết của ông thường liên quan tới các vấn đề lịch sử, các quốc gia (cũ) trong cộng đồng Trung Quốc, nghĩa là rất rộng lớn nên việc xử lý, kết cấu các tình huống tiểu thuyết phải làm sao cho hợp lý, để cuốn hút người đọc ngay từ ban đầu.

Kim Dung đã tạo ra những mâu thuẫn chiều dọc – giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa tình huống này và tình huống khác và chiều ngang – chính là diễn biến tâm lý phức tạp trong nội tâm từng nhân vật.

Tạo ra kịch tính

Kim Dung có khả năng hư cấu tuyệt vời, đẩy những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khiến người đọc có cảm giác nhân vật khó thoát khỏi tình huống bi kịch nhất. Nhưng rồi ông giải quyết vẫn đề một cách hết sức khoa học, gọn nhẹ, hợp lý.

Tình huống kết thúc một cách tốt đẹp, vượt qua khỏi sự tưởng tượng của bao nhiêu bạn đọc. Ta hãy lấy một ví dụ trong Thiên Long Bát Bộ.

Trên bước đường giang hồ, Đoàn Dự đã gặp và yêu thương Chung Linh là con của A Bảo, Mộc Uyển Thanh là con của Tần Hồng Miên, Vương Ngữ Yên là con của Vương phu nhân.

Những nhân vật A Bảo, Tần Hồng Miên, Vương phu nhân đều là người tình của Đoàn Chính Thuần (cha Đoàn Dự). Nói cách khác, các cô gái mà Đoàn Dự đem lòng thương yêu đều là em cùng cha khác mẹ của Đoàn Dự. Làm sao giải quyết được những mâu thuẫn kinh khủng đó?

Kim Dung giải quyết khá tài tình. Trong phút cuối của đời mình, khi Đao Bạch Phụng, mẹ của Đoàn Dự sắp qua đời, bà mới tiết lộ một điều kinh khủng: Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của Đoàn Diên Khánh.

Bởi căm giận thói trăng hoa của Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phụng đã đem tấm thân vương phi cao quý của mình cho Đoàn Diên Khánh. Cuộc giao hợp chớp nhoáng kì lạ đó đã đẻ ra chàng trai Đoàn Dự.

Đoàn Chính Thuần không có cái gen sinh con trai – chỉ toàn là con gái. Theo luật hôn nhân của nước Đại Lý, Đoàn Dự có thể lấy tất cả các cô Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, mà không cần phải thắc mắc về quan hệ huyết thống, dòng tộc, luân lý đạo đức.

Bản chất của tiểu thuyết là hư cấu.

Kim Dung dựa trên nền tảng những sự kiện lịch sử có thật của đất nước Trung Hoa, đẩy khả năng hư cấu bay bổng tuyệt vời.

Thí dụ trong Ỷ thiên Đồ Long Ký, ông cắt nghĩa sự ra đời của nhà Minh là cuộc kháng chiến do quần hùng Minh giáo Trung Hoa thực hiện.

Trong Thiên Long Bát Bộ, Kim Dung giới thiệu sự tương tranh, tương giao của các thế hệ quân chủ nhà Tống, nhà Liêu, nước Đại Lý, nước Thổ Phồn, nước Tây Hạ và tộc Nữ Chân.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có một trình độ hư cấu rất cao, nối kết hàng trăm nhân vật lại với nhau trong mối tương giao thật lạ lùng nhưng cũng thật hợp lý.

Những chi tiết đặc sắc trong tiểu thuyết Kim Dung

Kế thừa thủ pháp của các bậc tiền bối, tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung vẫn đưa ra những chi tiết có vẻ hoang đường, nhưng tính hoang đường ấy được đặt trên nền tảng có thật.

Thí dụ, nội công là khả năng có thật của người học võ. Nội công ấy được rèn luyện nhiều năm, trở thành công lực riêng của từng người.

Trên cơ sở đó, Kim Dung hư cấu ra tình huống – người này có thể dốc hết công lực của mình để truyền cho người khác, hoặc có thể hút công lực từ người khác thành của mình (Hấp tinh đại pháp).

Nếu phương tây lãng mạn trong hành động thì phương đông lãng mạn trong tư duy. Tư duy trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung quả thật lãng mạn bay bổng: Hái một chiếc lá, ném một cành hoa cũng có thể giết chết địch thủ, phóng một ngón tay ra không trung (cách không chỉ pháp) cũng có thể phong toả đúng huyệt đạo.

Như tôi đã giới thiệu, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được gọi là truyện, ký hoặc lục (Xạ Điêu Anh Hùng Truyện, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Thư Kiếm Ân Cừu Lục).

Cách kể chuyện của ông cũng rất lạ, rất hấp dẫn, bởi trong diễn biến của một câu chuyện đang được kể, Kim Dung đưa vào đó một nhân vật mới và nhân vật này đã kể lại một câu chuyện đã xảy ra.

Thí dụ trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, bọn hào sĩ đang bàn về sự giao du giữa Lệnh Hồ Xung đệ tử Hoa Sơn và tên dâm tặc Điền Bá Quang. Ai nấy đang tức giận, nguyền rủa hai gã này thì ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn xuất hiện.

Cô kể lại câu chuyện mình bị Điền Bá Quang bắt cóc định làm nhục, được Lệnh Hồ Xung ra tay cứu viện thế nào. La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành nhân cơ hội Lệnh Hồ Xung bị thương nặng đã giết chàng thế nào.

Chuyện kể của Nghi Lâm hấp dẫn đến nỗi, dù các nhân vật không xuất hiện, người đọc vẫn thấy được đặc điểm, cá tính của từng nhân vật, nhận ra ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Đọc Kim Dung, người ta sảng khoái vì lối hành văn lạ lùng này.

Tóm tắt sách “Kim Dung Giữa Đời Tôi” của Vũ Đức Sao Biển.

Xin hân hạnh giới thiệu sách “Kim Dung Giữa Đời Tôi” của Vũ Đức Sao Biển.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang