Không có triết gia nào có ảnh hưởng ‘trong thời hiện đại’ hơn Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831). Hegel đã truyền cảm hứng cho những nhà tư tưởng vĩ đại như Karl Marx, Engels, Francis Fukuyama.
“Ông đã bao giờ đọc Hegel chưa”? Jose Mourinho, cựu huấn luyện viên của Manchester United đã hỏi một nhà báo, trong một cuộc họp báo vào năm 2018.
Là con trai cả của một công chức đến từ tây nam nước Đức, Hegel sinh năm 1770. Là một sinh viên thần học ở Stuttgart, Hegel sợ rằng mình sẽ trở thành một Populärphilosoph – một người phổ biến các lý thuyết phức tạp.
Hegel, trong “Hiện tượng học tinh thần” đã càu nhàu với “những lời phàn nàn về tính khó hiểu của các tác phẩm triết học, đến từ những những người có đủ khả năng để hiểu chúng”.
Nhưng khó đọc không có nghĩa là ông ấy sai. Thật kỳ lạ, chúng ta thích phân tích cẩn thận một định đề toán học, sẵn sàng nghiền ngẫm thơ ca, nhưng lại thường không sẵn sàng làm điều tương tự với triết học.
Các nhà phê bình triết học của Hegel đôi khi không hiểu rằng, người bạn cùng phòng, nhà thơ lãng mạn Friedrich Hölderlin đã tìm cách kết hợp tính chặt chẽ của toán học với vẻ đẹp và sự duyên dáng của thơ ca. Vì lý do này, chúng ta nên học theo Hegel khi ông nói rằng, triết học phải được “đọc đi đọc lại trước khi hiểu được nó” (Hiện tượng học tinh thần, tr.39).
Để hiểu Hegel, cũng cần đánh giá cao việc ông chịu ảnh hưởng – dưới cái bóng của Immanuel Kant (1724-1804). Theo nhiều cách, toàn bộ triết học của ông là một câu trả lời tỉ mỉ cho kết luận của Kant trong “Phê bình lý tính thuần túy” (1781) rằng, không thể hiểu được bản chất của thế giới thực.
Giống như Kant, Hegel chấp nhận, mọi sự hiểu biết về thế giới phải bắt đầu từ nhận thức của cá nhân. Nhưng không giống Kant, Hegel tin rằng, có thể hiểu thế giới như thực tế vốn có của nó, độc lập với những hạn chế của cảm giác và suy nghĩ của con người – để hiểu ‘sự vật tự thân’, hay bản thể, như Kant cũng gọi nó.
Hegel nhấn mạnh, thực tại không phải là thứ tồn tại độc lập với tâm trí của chúng ta, mà là sản phẩm của sự tương tác của chúng ta với thế giới, và bản chất của thực tại là cái mà ông gọi là ‘Geist’ – thường được dịch là ‘tâm trí’, ‘trí năng’ hay ‘tinh thần’.
Triết lý của ông về cơ bản bao gồm việc kể lại, đầu tiên, “Tinh thần chủ quan” phát triển như thế nào, khi chúng ta có được ý thức về bản thân; tiếp theo, “Tinh thần khách quan” – tinh thần của một nền văn hóa – đơm hoa kết trái như thế nào, khi nhận ra rằng, chúng ta chỉ có thể tự do trong một xã hội gồm nhiều cá nhân khác nhau trong một nhà nước; và cuối cùng là, làm thế nào mà “Tinh thần tuyệt đối” của toàn bộ lịch sử đạt đến đỉnh cao của sự tự nhận thức về bản thân, trong toàn bộ nhân loại, thông qua nghệ thuật, tôn giáo và trên hết là triết học.
Hegel với triết học
Đây là một kế hoạch lớn, một lý thuyết về mọi thứ được vạch ra một cách chi tiết và liên quan đến các phương pháp điều tra triết học hoàn toàn mới. Chủ nghĩa duy tâm của Hegel đã trở nên có ảnh hưởng phi thường trên toàn thế giới, truyền cảm hứng cho vô số triết gia thế kỷ 19 và 20 được gọi là những người theo chủ nghĩa Hegel – những người đã áp dụng chúng vào mọi lĩnh vực tư tưởng.
Tuy nhiên, không phải tất cả những người cùng thời với Hegel đều ấn tượng như vậy. Søren Kierkegaard (1813-55), người đã dành phần lớn cuộc đời ngắn ngủi của mình để chỉ trích Hegel, đã nhận xét rằng, “Một nhà tư tưởng dựng lên một tòa nhà đồ sộ … và chúng ta khám phá ra rằng, bản thân ông ta không sống trong cung điện mái vòm cao này, mà trong một nhà kho bên cạnh nó … hoặc cùng lắm là trong nhà nghỉ của người khuân vác” (The Sickness to Death, tr.176-177).
Ít nhất thì Dane cũng lịch sự trong cuộc bút chiến của mình. Điều tương tự không thể xảy ra đối với Arthur Schopenhauer (1788-1860), một đồng nghiệp của Hegel tại Đại học Berlin nói rằng, Hegel đang “nói ra những điều hoàn toàn vô nghĩa, ghép vào nhau những mớ dài dòng vô nghĩa mà trước đây, chỉ được lắng nghe trong một nhà thương điên” (Thế giới như ý chí và đại diện, tr.456).
Cuộc tấn công dữ dội vào Hegel này cũng là đặc điểm của triết học Anh đầu thế kỷ 20, sau khi GE Moore và Bertrand Russell lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại cái gọi là ‘chủ nghĩa Hegel của nước Anh’.
Nhưng trong khi Kierkegaard và Schopenhauer đặt vấn đề với siêu hình học của Hegel, thì vào những năm 1940, các nhà văn và triết gia như Karl Popper và Bertrand Russell, thường có rất ít bằng chứng văn bản, đã lên án Hegel là một kẻ phát xít.
Trong “Xã hội mở và kẻ thù của nó” – tập 2, Karl Popper gọi Hegel là “mối liên kết còn thiếu giữa Plato và chủ nghĩa toàn trị hiện đại” (p.31, 1945).
Về phần mình, Bertrand Russell tuyên bố rằng, đối với Hegel, ‘tự do’ là “quyền tuân theo cảnh sát” (A History of Western Philosophy, tr.671, 1945). Việc Hegel là người bảo vệ pháp quyền và kiên quyết rằng, “tự do chủ quan phải được tôn trọng” (Outline of the Philosophy of Right [PoR], 1820, tr.262), dường như đã bị họ bỏ qua.
Nhưng người được coi là người bảo vệ nhà nước cảnh sát Phổ (Đức) không phải là một người theo chủ nghĩa dân tộc. Thật vậy Bertrand Russell mô tả niềm tin đó là “sự ích kỷ thuần túy của niềm tự hào trống rỗng” (PoR, p.10).
Không giống như Plato, Rousseau và Hobbes – chỉ kể tên 3 người – mục đích đã nêu của Hegel không phải là “xây dựng một nhà nước như nó phải là”, mà chỉ “để chỉ ra cách hiểu nhà nước, vũ trụ đạo đức” (tr.15).
Đến cuối thế kỷ 20, quan điểm tiêu cực về Hegel trong thế giới nói tiếng Anh bắt đầu thay đổi. Những phát ngôn tự do không thường xuyên của Hegel đã khiến John Rawls, được cho là triết gia chính trị vĩ đại nhất của thế kỷ 20, và là một người theo chủ nghĩa tự do, mô tả ông là ‘một người theo chủ nghĩa tự do có đầu óc cải cách tiến bộ vừa phải’ (The History of Moral Philosophy, p.330, 2000).
Nhưng điều này cũng là một sự đơn giản hóa. Đối với những người mới bắt đầu, ‘chủ nghĩa tự do’ được cho là của Hegel chắc chắn mâu thuẫn với quan điểm của ông, ‘chiến tranh không phải là một điều ác tuyệt đối’ – “giống như những cơn gió thổi, giữ cho biển khỏi bị trì trệ, thì sự trì trệ trong các dân tộc cũng sẽ là sản phẩm của sự kéo dài, huống chi là hòa bình tuyệt đối” (PoR , p.324).
Nhận xét này, cũng như việc ông bảo vệ hình phạt tử hình (PoR , p.100), có thể được coi là sự phản ánh thời gian mà ông đã sống. Hegel hẳn sẽ tán thành cách giải thích này.
Thật vậy, Hegel là triết gia đầu tiên thực sự chấp nhận ý tưởng, quan điểm của chúng ta là sản phẩm của thời đại chúng ta. Trong The Philosophy of Right (xuất bản lần đầu vào năm 1820), ông tán thành quan điểm, “bất cứ điều gì xảy ra, mỗi cá nhân đều là đứa trẻ của thời đại mình”.
Hegel với lịch sử
Để hiểu triết học của Hegel, người ta không nên tập trung quá nhiều vào việc ông bảo vệ chế độ quân chủ lập hiến hay các mối quan tâm chính trị đương thời khác, mà nên tập trung vào ý tưởng cơ bản của ông, “lịch sử thế giới không gì khác hơn là sự tiến bộ của ý thức về tự do” (Bài giảng lịch sử triết học, 1837, tr.19).
Nhưng đối với Hegel ‘tự do’ không phải là khả năng muốn làm gì thì làm – một ý tưởng mà theo quan điểm của ông cho thấy “sự non nớt hoàn toàn của tư duy” (PoR, p.15). Thay vào đó, “sự khởi đầu của sự hiểu biết về bản thân … là tự do đích thực. Sự tự do thực sự này chính xác là trao cho mỗi khoảnh khắc của tính hợp lý về ý thức riêng của nó” (PoR, p.279).
Aristotle đã nói về cách mọi thứ hiện thực hóa tiềm năng của chúng (Metaphysics, 1048b1–3). Hegel đã áp dụng quan điểm này, nhưng ở quy mô lớn hơn. Mục đích triết học của ông là hiểu quá trình lịch sử; sự bộc lộ của tinh thần dưới các hình thức khác nhau, đó là tinh thần hiện thực hóa tiềm năng của nó. Và đối với Hegel, lịch sử chỉ có thể được hiểu khi nhìn lại quá khứ. Đây là ý của Hegel khi ông viết một câu nổi tiếng “màu xám của triết học không thể trẻ lại được. Con cú của Minerva chỉ bắt đầu chuyến bay của mình khi hoàng hôn buông xuống” (PoR, p.16).
Vậy thì lịch sử là cốt lõi trong suy nghĩ của Hegel. Một điểm quan trọng khác là ‘biện chứng’ nổi tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà Hegel đã sử dụng từ Hy Lạp ‘Dialektikós’ về phương pháp của mình. ‘Dialektikós’ có thể được dịch là ‘liên quan đến đối thoại hoặc tranh luận’.
Đối với Hegel, lịch sử thế giới là một cuộc trò chuyện đang diễn ra. Cuộc đối thoại này diễn ra trong những tình huống khác nhau, nhưng cấu trúc cơ bản của lịch sử luôn giống nhau: Các mặt đối lập xung đột và tiến lên (vượt qua).
Hegel luôn nghĩ về những mặt đối lập cần phải vượt qua. Các nhà giải thích sau này thường nói về sự khắc phục các mặt đối lập này như là sự tổng hợp của các mặt đối lập (ngôi sao điện ảnh Lý Tiểu Long đã viết luận văn tốt nghiệp của mình về ‘Lý thuyết tổng hợp của Hegel’), nhưng từ tiếng Đức mà Hegel sử dụng là Aufhebung, có nghĩa là ‘vượt qua’, nhưng cũng có thể có nghĩa là ‘nâng lên’ hoặc ‘xóa bỏ’.
Ví dụ, trong cuốn “Khoa học về Logic” (viết năm 1812), Hegel đã nói về việc làm thế nào mà ‘hiện hữu’ và ‘hư vô’ có thể được ‘nâng lên’ hoặc ‘vượt qua’ trong thuật ngữ ‘trở thành’.
Hegel và Napoléon
Ví dụ nổi tiếng nhất về quá trình biện chứng được tìm thấy trong “Hiện tượng học tinh thần”, một cuốn sách ông viết khi còn là một giảng viên nghèo ở Jena vào năm 1806, trong khi quân đội của Napoléon đang áp sát thành phố.
Nhà triết học của chúng ta cũng gặp rắc rối trên một số ‘mặt trận’ khác. Hegel đã trễ hẹn bản thảo tác phẩm của mình, và người vợ của Hegel đã mang thai đứa con của ông ấy.
Để phù hợp với một người đàn ông tiếp tục viết về ‘đời sống đạo đức’, Hegel đã trả tiền cấp dưỡng nuôi con cho người mẹ, và đứa trẻ sau đó sống với ông.
Không chỉ bản thảo của ông ấy bị trễ; Hegel nói chung là một nhà phát triển ‘muộn’. Bạn cùng phòng khác của ông ở trường đại học, Friedrich Schelling, đã trở thành giáo sư chính thức ở tuổi 23. Ngược lại, thời kỳ đầu trưởng thành của Hegel chủ yếu làm gia sư riêng cho các gia đình trung lưu giàu có. Nhưng về mặt triết học, mọi thứ đã bắt đầu ‘ăn khớp’ với Hegel.
Hegel với các triết gia khác
Có thể chính trải nghiệm về sự mù mờ đã thôi thúc ông thực hiện ‘sự công nhận’ (Anerkennung) một nguyên lý trung tâm khác trong triết học ban đầu của Hegel.
Trong tác phẩm “Hiện tượng học tinh thần”, Hegel viết, việc tự ý thức chỉ xuất hiện khi một cá nhân có ý thức gặp gỡ một cá nhân khác.
Khi ý thức về bản thân phát triển ở cả hai người, họ thường tìm kiếm sự công nhận từ người kia, nhưng họ cũng sợ hãi lẫn nhau. Trong sự gặp gỡ này, một người cuối cùng phải khuất phục và trở thành ‘tôi tớ’, người kia trở thành chủ nhân. Hegel gọi nó là “cuộc chiến cho đến chết”.
Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, mối quan hệ bắt đầu bị đảo ngược. ‘Người chủ’ sẽ không nhận được sự công nhận hoàn toàn từ người không ngang hàng với mình. Tuy nhiên, khi người chủ ủy thác công việc cho ‘tôi tớ, ‘tôi tớ’ sẽ trở nên sáng tạo hơn.
Bằng cách này, thông qua lao động, ‘tôi tớ’ “ý thức được mình thực sự là ai” và “nhận thức được, bản thân ‘họ’ tồn tại một cách cần thiết và phục vụ theo quyền của người chủ” (Hiện tượng học tinh thần, tr.196). Do đó, thông qua sợ hãi và phục vụ, ‘tôi tớ’ trở thành sinh vật sáng tạo, trong khi chủ nhân trở nên ‘xa lánh’.
Vâng, ý tưởng về ‘sự tha hóa’ được đưa ra bởi Hegel chứ không phải Marx! Nhưng không khó để thấy tại sao Karl Marx sau này tự xưng là ‘học trò’ của Hegel (Tư bản luận, p.10).
Đối với Hegel, mối quan hệ ‘chủ tớ’ và động lực của nó là khởi đầu của phép biện chứng. Trong lĩnh vực xã hội – lĩnh vực của “Tinh thần khách quan”, “thực thể trực tiếp của tinh thần được đặc trưng bởi tình yêu” – Hegel gọi là gia đình (PoR, p.158) đối lập với “xã hội tư sản”.
Phần tử ‘tư sản’ là bộ phận của xã hội, trong đó “mỗi cá nhân là mục đích của chính mình và mọi thứ khác không là gì đối với họ” (PoR, p.182). Không khó để hiểu tại sao Marx và Engels mô tả xã hội tư bản – tư sản là một xã hội trong đó “không có mối quan hệ nào khác giữa con người với con người ngoài tư lợi thuần túy, ngoài việc trả tiền một cách nhẫn tâm” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản, tr.82, 1848). Quả thật, họ là học trò của Hegel.
Bài giảng của Hegel
Nói một cách dễ hiểu, Hegel quan tâm đến hoàn cảnh của người nghèo không kém gì Marx. Karl Marx – người sáng lập chủ nghĩa cộng sản đã viết rằng, giai cấp tư bản đã ‘xé nát không thương tiếc’ trật tự xã hội hiện có (Tuyên ngôn Đảng cộng sản, tr.82).
Hegel, với sự phẫn nộ tương tự, đã lên án cách nền kinh tế thị trường “xé đứt cá nhân khỏi mối quan hệ gia đình, khiến các thành viên trong gia đình xa cách nhau” (PoR, p.238).
Nhưng không giống như Karl Marx, Hegel nhận ra, cơ chế thị trường có thể đóng một vai trò trong việc cải thiện xã hội, và tốt hơn là duy trì hệ thống tư bản chủ nghĩa, mặc dù nên có sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước.
Như Hegel đã viết, “những lợi ích khác nhau … có thể xung đột với nhau và mặc dù mối quan hệ đúng đắn giữa chúng về tổng thể diễn ra một cách tự động, nhưng sự điều chỉnh của nó vẫn cần một sự kiểm soát của nhà nước” (PoR, tr.236).
Nếu không có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng lớn, vì chủ nghĩa tư bản tạo ra “những điều kiện thuận lợi cho việc tập trung tài sản vào tay một ít người” và kết quả là “mức sống của phần lớn người dân suy giảm – dưới một mức sinh hoạt nhất định … Nó sẽ tạo ra một giai cấp vô sản bần cùng” (tr.244).
Vì lý do này, mục đích của nhà nước không phải là bảo vệ các quyền tự do tiêu cực (quyền tự do không bị can thiệp, như trong triết học của John Locke), cũng không phải để duy trì đạo đức truyền thống (như trong Thomas Aquinas).
‘Nhà nước’ đối với Hegel không chỉ là ‘khu vực công’, mà là một cơ quan phản ánh tinh thần của một dân tộc, “luật pháp được tôn trọng trong các cơ quan nhà nước, đồng thời cũng là tập quán và ý thức của công dân” (tr.274).
Vì vậy, cách Hegel sử dụng từ ‘nhà nước’ được hiểu đúng hơn là ‘quốc gia’ hay ‘nhân dân’. Đối với Hegel, tất cả mọi người đều là sản phẩm của một quá trình tiến hóa gắn với lịch sử, trong đó các ‘nhóm’ khác nhau vượt qua sự đối lập và đạt trạng thái cân bằng mới. Hegel đã viết, “cái gì hợp lý là hiện thực, và cái gì hiện thực là hợp lý” (tr.14).
Hegel thấy rằng, những khác biệt xã hội có thể khắc phục được, và ông tin rằng lịch sử đã chứng minh điều này. Nhưng không giống như Marx (và Kant), Hegel không phải là người theo chủ nghĩa quốc tế hay nhà cách mạng.
Mỗi dân tộc đều phát triển theo nhịp độ của riêng mình, vì vậy “dân tộc nào cũng có một hiến pháp phù hợp với mình” (tr.274). Điều này hàm ý, những cải cách áp đặt từ bên ngoài chắc chắn sẽ thất bại.
Ví dụ, Hegel đã viết rằng, khi Napoléon “muốn trao cho người Tây Ban Nha một bản hiến pháp … nó đã trở nên tồi tệ… Vì hiến pháp không phải là sản phẩm có thể áp đặt tức thời lên xã hội khác, đó là công việc của nhiều thế kỷ … khi ý thức về tính hợp lý được phát triển ở một dân tộc cụ thể” (tr.274).
Kết luận
Hegel là một nhà siêu hình học thi ca và là người quan sát sắc sảo các sự kiện cụ thể, nhưng ông cũng cố gắng tạo ra một hệ thống triết học tối thượng.
Tác giả: Matt Qvortrup là giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Coventry.