Đề xuất thử nghiệm hệ thống ngân hàng lõi (core banking) mới?

Thử nghiệm tạo ra một hệ thống ngân hàng lõi (core banking) theo mô đun, hiệu quả về mặt chi phí, phù hợp với ngân hàng thương mại

Ngân hàng lõi (core banking)

Bài viết này mục đích ‘kiến tạo’ một hệ thống ngân hàng lõi ‘mới’ (core banking system – CBS”), một hệ thống có tính mô-đun và hiệu quả về mặt chi phí hơn so với hệ thống ngân hàng lõi truyền thống được sử dụng trong các ngân hàng thương mại ở các nước phát triển.

Hệ thống ngân hàng lõi mới (core banking) có thể phù hợp hơn cho các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển, những nước đang phải đối mặt với những thách thức gay gắt trong việc mua lại hoặc phát triển hệ thống ngân hàng lõi (core banking) của mình nhằm cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn cho khách hàng.

Hệ thống ngân hàng lõi (core banking) là một tập hợp phần mềm, bao gồm nhiều mô-đun khác nhau thực hiện hệ thống back-end của ngân hàng thương mại.

Chúng ta ai cũng quen thuộc các hoạt động của ngân hàng: Tiền được khách hàng gửi qua nhân viên giao dịch ngân hàng, ghi nhận khách hàng đã rút tiền từ ATM, các điều khoản của khoản vay có thế chấp (ví dụ: nguyên tắc, lãi suất, kỳ hạn, …), thực hiện xử lý cuối ngày để tính lãi tích lũy trên tiền gửi ngân hàng và các khoản vay, gửi thư giấy hoặc thư điện tử để nhắc nhở khách hàng về các sự kiện khác nhau (ví dụ đến hạn thanh toán, thanh toán đã được thực hiện, thanh toán chậm, tiền gửi đáo hạn, …), và nhiều hoạt động và dịch vụ khác.

Mặc dù các chức năng của các mô-đun này có vẻ đơn giản khi được mô tả, nhưng khó khăn và phức tạp nằm ở tính quy mô của nó.

Cần phải viết nhiều dòng mã máy tính để tạo mô-đun và mất nhiều thời gian hơn để kiểm tra mô-đun, đảm bảo mô-đun hoạt động chính xác.

Ngoài ra, hệ thống ngân hàng lõi (core banking) của một ngân hàng thương mại có thể phục vụ hàng trăm đến hàng triệu yêu cầu đồng thời cùng một lúc, do đó nó cần phải được thiết kế và mã hóa có tính đến yếu tố hiệu suất.

Kết quả là hầu hết các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển không có đủ năng lực kỹ thuật để xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking) từ đầu và thường sẽ sử dụng ngân hàng lõi (core banking) từ các nhà cung cấp hệ thống ngân hàng lõi – chủ yếu tại các nước đã phát triển.

Thực tế cho thấy các nhà cung cấp ngân hàng lõi (core banking) đều tập trung vào phục vụ các ngân hàng thương mại lớn ở các nước phát triển.

Đó là lý do, các ngân hàng thương mại nhỏ hơn ở các nước đang phát triển gặp khó khăn khi triển khai hệ thống ngân hàng lõi (core banking). Kết quả là nhiều ngân hàng đang sử dụng hệ thống riêng biệt được phát triển dần dần và gắn kết với nhau bằng cách sử dụng tính năng tích hợp riêng biệt.

Điều này dẫn đến các ngân hàng thương mại này đang ‘nợ’ một ‘khoản nợ’ về công nghệ. Nó vừa là lực cản kinh doanh, vừa là rủi ro pháp lý.

Sẽ cần nỗ lực đáng kể và tập trung để trả ‘khoản nợ công nghệ này’ và cho đến lúc đó, quy mô hoạt động kinh doanh sẽ bị hạn chế và đôi khi sẽ có nguy cơ vi phạm quy định pháp lý.

Fintech, phối hợp với một công ty đầu tư mạo hiểm, tin rằng các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển là một thị trường khổng lồ chưa được khai thác và đã chín muồi để ‘chinh phục’.

Do đó, họ đang bắt tay vào một thử nghiệm để khám phá xem liệu họ có thể vượt qua 3 rào cản này để ‘chinh phục’ hay không.

Chi phí cao khi mua ngân hàng lõi (core banking) từ nhà cung cấp giải pháp truyền thống. Ví dụ về các giải pháp hệ thống ngân hàng lõi (core banking) là Avaloq, TemenosFinnacle và thường liên quan đến phí triển khai hàng triệu đô la, tiếp theo là hàng triệu đô la phí giấy phép hàng năm.

Đây là di sản từ việc phát triển cơ sở khách hàng ở các nước phát triển. Kết quả là, các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc tiếp cận ngân hàng lõi.

Nền tảng ‘công nghệ nguyên khối’ được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của khách hàng lớn hơn – dành cho các ngân hàng với quy mô lớn, nhiều sản phẩm tài chính.

Thực tế, hầu hết các giải pháp ngân hàng lõi (core banking) đã phát triển thành trạng thái hiện tại, từ việc nâng cấp dần dần được thực hiện trong nhiều thập kỷ và những cải tiến này nhằm đáp ứng yêu cầu của các khách hàng lớn hơn.

Kết quả là, ngay cả khi một ngân hàng thương mại từ một quốc gia đang phát triển sẵn sàng cam kết vốn để triển khai một hệ thống ngân hàng lõi (core banking) như vậy, họ thường phải điều chỉnh đáng kể quy trình cho phù hợp với thiết kế của hệ thống ngân hàng lõi từ các nhà cung cấp.

Đồng thời, do tính chất nguyên khối về công nghệ, nó thường sẽ yêu cầu điều chỉnh quy trình ở quy mô đầy đủ.

Hầu hết hệ thống ngân hàng lõi (core banking) được thiết kế trong thời đại mà công nghệ đám mây thậm chí còn chưa được hình thành như một khái niệm và kho công nghệ thường được triển khai trên phần cứng máy tính với các yêu cầu rất cụ thể.

Kết quả là, ngoài việc triển khai phần mềm và phí giấy phép sử dụng hệ thống ngân hàng lõi (core banking), các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển thường phải đầu tư đáng kể vào ‘phần cứng máy tính’ để sử dụng hệ thống ngân hàng lõi (core banking). Điều này nâng tiêu chuẩn triển khai ngân hàng lõi lên cao hơn nữa.

Xem thêm: Sự khác biệt giữa tài chính nhúng và ngân hàng như một dịch vụ (BaaS)

Xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking)

Để vượt qua những rào cản đối với sự gián đoạn này, Fintech và công ty đầu tư mạo hiểm dự tính thực hiện những điều sau:

Thiết kế hệ thống ngân hàng lõi với tính chất mô-đun. Thay vì cải tiến dần dần đối với hệ thống ngân hàng lõi (core banking) truyền thống trong những năm qua, thường chỉ đơn giản là theo yêu cầu từ khách hàng trả tiền lớn nhất, hệ thống mới sẽ được thiết kế phù hợp với hoạt động của ngân hàng thương mại khác nhau, một cách hài hòa và hiệu quả hơn, thay vì chỉ cài đặt từng mô-đun mới theo cách phù hợp nhất.

Một ví dụ về kiến ​​trúc như vậy là cách dữ liệu sẽ được truyền từ mô-đun này sang mô-đun khác. Một bộ tiêu chuẩn dữ liệu chung có thể được yêu cầu tại thời điểm ‘kiến ​​trúc ngân hàng lõi’, đảm bảo rằng mỗi mô-đun biết cách giao tiếp với nhau một cách nhất quán.

Quyết định về kiến ​​trúc này, dù nhỏ, nhưng có thể làm chậm ‘tốc độ tích lũy nợ công nghệ’, vì hầu hết các hoạt động liên lạc sẽ được tiêu chuẩn hóa, thay vì là một sản phẩm đặt riêng ‘có một không hai’.

Xem thêm: Tìm hiểu ngân hàng lõi – core banking: Vì sao nhiều ngân hàng chậm đổi mới

Cung cấp các phân hệ thường dùng cho từng trường hợp sử dụng của ngân hàng thương mại. Người thiết kế hệ thống ngân hàng lõi (core banking) sẽ cung cấp một danh sách các mô-đun được tích hợp phổ biến phù hợp với một trường hợp sử dụng cụ thể.

Bằng cách này, các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển có thể triển khai dần dần hệ thống ngân hàng lõi (core banking) đó, đồng thời có cái nhìn về các mô-đun trong tương lai có thể được bổ sung một cách mạch lạc vào danh mục hiện tại của họ. Điều này có thể làm giảm đáng kể chi phí triển khai hệ thống ngân hàng lõi mới.

Thiết kế hệ thống ngân hàng lõi (core banking) để tương thích với cơ sở hạ tầng đám mây. Thông qua việc thiết kế hệ thống tương thích với cơ sở hạ tầng đám mây hiện đại, nó có thể giảm thiểu nhu cầu đầu tư đáng kể vào phần cứng máy tính của các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển.

Ngoài ra, họ có thể mua cơ sở hạ tầng đám mây khi cần thiết. Điều này có thể giảm thêm chi phí phát triển.

Nếu thử nghiệm thành công, hệ thống mới có thể tạo mầm mống cho hệ sinh thái Fintech bằng một hệ thống ngân hàng lõi mới, một hệ thống có tính mô-đun và hiệu quả về mặt chi phí.

Hệ thống ngân hàng lõi mới như vậy có thể cho phép các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển một lựa chọn rất cần thiết để hiện đại hóa nền tảng công nghệ của họ, cho phép họ cung cấp các dịch vụ tài chính ở mức độ cao hơn cho khách hàng của mình.

Tác giả: Nother Armchair Economist

Nguồn: Nother Armchair Economist – medium.com – Mỹ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang