Con Đường Dẫn Đến Chiến Tranh Ở Ukraine

Ukraine đã bị giằng xé giữa NATO và Nga trong nhiều thập kỷ. Cả NATO, Mỹ, và chính phủ Ukraine phải chịu trách nhiệm cho tình trạng hiện tại

Khủng hoảng Ukraine. Ảnh China Daily

Tác giả: Eliasson

Trên các phương tiện truyền thông, người ta đưa ra một bức tranh đơn giản hóa và đôi khi hết sức sai lệch về bối cảnh của cuộc chiến ở Ukraine.

Putin được mô tả là một nhà độc tài và điên rồ, người muốn chiếm lấy tất cả các nước láng giềng của Nga (và thậm chí cả Thụy Điển). Trên thực tế, không có cuộc chiến tranh nào là do cái ác hay sự điên rồ. Đằng sau luôn có những lợi ích chính trị và kinh tế thô bỉ.

Việc Nga tấn công Ukraine là vi phạm luật pháp quốc tế, điều đó khá rõ ràng. Nhưng bất cứ ai muốn hiểu bối cảnh của cuộc chiến – và hành động của Nga – phải nhìn lại quá khứ.

Kể từ khi Ukraine giành được độc lập khỏi Liên Xô vào năm 1991, quốc gia này đã bị giằng xé giữa Mỹ/NATO và Nga.

Một tỷ lệ lớn dân số Ukraine là người dân tộc Nga hoặc nói tiếng Nga, và xem việc hợp tác với Nga là điều đương nhiên. Các nhóm dân cư khác, đặc biệt là ở miền tây Ukraine, muốn có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Tây Âu.

Mỹ và NATO muốn đưa Ukraine vào phạm vi lợi ích của họ, từ đó làm suy yếu Nga. Ngược lại, Nga lại có lợi ích trong việc duy trì căn cứ hải quân của mình trên bán đảo Crimea và giữ NATO tránh xa biên giới của họ.

Các chính phủ Ukraine thân Nga thường xen kẻ với các chính phủ thân phương Tây – muốn trở thành một thành viên EU và NATO. Trong cái gọi là Cách mạng Cam 2004-2005 tại Ukraine, các cuộc biểu tình phản đối kết quả bầu cử tổng thống đã dẫn đến một cuộc tái tranh cử, trong đó Viktor Yushchenko thân phương Tây đã đánh bại Viktor Yanukovych được cho là ‘thân Nga’.

Năm 2008, NATO tuyên bố rằng Ukraine ‘một ngày nào đó’ sẽ gia nhập NATO, và cùng năm đó, chính phủ đã ‘nộp đơn’ cho việc lên ‘kế hoạch trở thành thành viên’ của NATO – bất chấp các cuộc thăm dò ý kiến ​​vào thời điểm đó cho thấy đa số người Ukraine chống lại tư cách thành viên NATO.

Năm 2009, Hoa Kỳ đã đàm phán với Ukraine về khả năng sử dụng các căn cứ và hệ thống radar của Ukraine trong hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Đông Âu.

Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2010, Viktor Yanukovych đã đánh bại ứng cử viên thân phương Tây Yulia Tymoshenko.

Chính phủ mới cho biết họ muốn giữ thái độ trung lập trong quan hệ với cả NATO và EU cũng như với Nga. Do đó, họ đã tạm dừng ‘hệ thống’ của NATO. Đồng thời, chính phủ gia hạn thỏa thuận về căn cứ hải quân Nga trên bán đảo Crimea, cho phép Nga quyền sử dụng căn cứ này cho đến năm 2042 – trước sự phản đối mạnh mẽ của phe đối lập thân phương Tây.

Đồng thời, Nga áp dụng học thuyết phòng thủ, xem sự hiện diện của NATO ở các nước láng giềng là mối đe dọa trực tiếp đối với nền độc lập và lợi ích của Nga trong khu vực.

Vào tháng 11 năm 2013, Yanukovych quyết định nói không với một hiệp định thương mại tự do với EU – điều này nhanh chóng làm dấy lên sự phản đối của các nhóm tự do thân EU, chủ yếu ở miền Tây Ukraine.

Được gọi là Euromaidan, các cuộc biểu tình nhanh chóng lan rộng đến thủ đô Kiev, quy tụ những người theo chủ nghĩa tự do cũng như các nhóm tân phát xít (những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Ukraine, biên tập), chống Nga công khai để phản đối chính phủ được xem là ‘thân Nga’.

Ngay từ đầu, phong trào Euromaidan đã được EU và Mỹ công khai ủng hộ, họ nhìn thấy cơ hội để thúc đẩy lợi ích ở Ukraine. Đại sứ Mỹ phát biểu tại cuộc biểu tình ở Kiev, còn thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa John McCain chụp ảnh cạnh lãnh đạo đảng phát xít Svoboda.

Các cuộc biểu tình ngày càng bạo lực có sự tham gia của các nhóm vũ trang cực hữu, và những tay súng bắn tỉa chưa rõ danh tính đã nổ súng vào cả cảnh sát và người biểu tình.

Các cuộc biểu tình Euromaidan lên đến đỉnh điểm, trong một cuộc đảo chính vào ngày 22 tháng 2 năm 2014, trong đó phe cánh hữu thân phương Tây trong quốc hội đã hủy bỏ một thỏa thuận với tổng thống, cấm các nghị sĩ ‘thân Nga’ tham gia và do đó có thể bổ nhiệm một quốc hội mới và tổng thống.

Ngay cả các phương tiện truyền thông thân phương Tây sau đó cũng buộc phải thừa nhận rằng hành động này trái với hiến pháp Ukraine.

Chính phủ bất hợp pháp mới, trong đó một số bộ trưởng đến từ các đảng phát xít, đã sớm đàn áp không chỉ người Nga gốc Ukraine, mà còn cả những người theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Trong số những điều khác, Đảng Cộng sản Ukraine đã bị cấm và luật hạn chế tiếng Nga được ban hành.

Chính phủ cũng công khai tuyên bố ý định gia nhập NATO và chấm dứt thỏa thuận về căn cứ hải quân ở Crimea, điều mà Nga xem là mối đe dọa. Tại bán đảo Crimea, nơi trước đây thuộc về Nga, phần lớn người dân Nga cũng xem chính phủ mới ở Kiev là một mối đe dọa.

Chẳng bao lâu sau, Lực lượng vệ binh địa phương tại Crimea, cùng với binh lính Nga từ căn cứ hải quân Nga ở Sevastopol đã nắm quyền kiểm soát các đồn quân sự và các tòa nhà chính phủ. Sau một cuộc trưng cầu dân ý, với đa số phiếu áp đảo, Crimea đã gia nhập Nga, bán đảo Crimea đã trở lại Nga.

Hành động của Nga phù hợp với những gì Mỹ và NATO đã làm, chẳng hạn ở Nam Tư – nhưng hai sai lầm đó không tạo nên một điều đúng.

Ở miền đông nam Ukraine, nơi phần lớn dân số là người gốc Nga, nhiều người xem chính phủ chống Nga mới là một mối đe dọa.

Vào tháng 3 năm 2014, các cuộc biểu tình ủng hộ Nga đã nổ ra ở Donetsk, cùng với những nơi khác, và vào tháng 4, tình trạng bất ổn đã khiến chính phủ Ukraine phát động ‘chiến dịch chống khủng bố’. Đồng thời, hai cái gọi là Cộng hòa nhân dân độc lập được thành lập ở Donetsk và Lugansk.

Tình trạng bất ổn nhanh chóng leo thang thành cuộc nội chiến ở khu vực Donbass, nơi quân đội Ukraine được hỗ trợ bởi lực lượng dân quân cực hữu, đã chiến đấu với quân nổi dậy ly khai với sự hỗ trợ ít nhiều từ Nga – tuy nhiên, nước này phủ nhận sự tham gia của quân đội Nga.

Từ 2014 đến trước 24 tháng 2 năm 2022, cuộc xung đột ở miền đông Ukraine (quân đội Ukraine tấn công phe li khai ở miền đông Ukraine) đã khiến khoảng 13.000 người Ukraine thiệt mạng và hơn một triệu người dân buộc phải chạy trốn, hầu hết trong số họ sang Nga. Các tổ chức nhân đạo đã gióng lên hồi chuông cảnh báo rằng, cả hai bên đều có hành vi lạm dụng.

Sau khi các cuộc đàm phán hòa bình thất bại vào tháng 9 năm 2014, cái gọi là Nghị định thư Minsk, một thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết vào tháng 2 năm 2015, Minsk II.

Theo thỏa thuận, cả hai bên sẽ hạ vũ khí, Donetsk và Lugansk sẽ được đảm bảo quyền tự chủ lớn hơn ở Ukraine. Thỏa thuận này ít nhiều bị chính quyền Kiev phớt lờ, và pháo kích vào Donbass vẫn tiếp tục – trong khi Kiev cáo buộc phe ly khai cũng vi phạm thỏa thuận.

Tuy nhiên, trong những năm qua, thỏa thuận Minsk II được coi là cơ hội lớn nhất cho hòa bình. Nga cho biết họ hoàn toàn ủng hộ giải pháp dựa trên thỏa thuận Minsk, trong khi NATO và Mỹ tỏ ra lạnh lùng với thỏa thuận.

Trong số những điều khác, Nga cho biết họ sẵn sàng tiếp nhận lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc ở Donbass. Đồng thời, có những thế lực mạnh ở Ukraine tin rằng thỏa thuận Minsk II chính là việc nhượng bộ phe ly khai.

Thỏa thuận Minsk II đã bị chính phủ Ukraine chôn vùi một cách hiệu quả vào ngày 2/2 năm 2015, khi Ngoại trưởng Dmytro Kuleba tuyên bố trong một tuyên bố rằng Donetsk và Lugansk sẽ không nhận được bất kỳ quy chế đặc biệt nào ở Ukraine.

Trong những năm qua, kể từ Euromaidan và cuộc khủng hoảng Crimea, các chính phủ Ukraine bất ổn đã kế nhiệm nhau, và nạn tham nhũng đã lan rộng, nếu có thể, thậm chí còn nhiều hơn trước.

Những nhà tài phiệt quyền lực của Ukraine, chẳng hạn như tỷ phú bánh kẹo Petro Poroshenko, đã trở thành tổng thống. Sự bất ổn và cuộc nội chiến ở khu vực Donbass đã ngăn cản Ukraine trở thành thành viên NATO.

Năm 2019, cựu diễn viên hài Volodymyr Zelensky của Đảng Nhân dân theo chủ nghĩa dân túy đã được bầu làm tổng thống. Zelensky tham gia cuộc bầu cử trên cơ sở, cùng với những lý do khác, nói rằng, ông sẵn sàng đàm phán với Nga để tìm giải pháp cho cuộc xung đột.

Kể từ mùa xuân năm 2021, Nga đã triển khai quân dọc biên giới với Ukraine và tiến hành tập trận ở Belarus.

Đồng thời, Nga đã chỉ trích các cuộc tập trận của NATO và sự hiện diện của quân đội dọc biên giới Nga, đồng thời cũng chỉ trích việc gia tăng đàn áp đối với cư dân nói tiếng Nga ở các khu vực do chính phủ kiểm soát ở Donetsk và Lugansk.

Nga cũng yêu cầu Mỹ và NATO đảm bảo rằng, Ukraine sẽ không gia nhập NATO và NATO sẽ không triển khai thêm đơn vị quân sự ở các nước láng giềng của Nga. Các yêu cầu luôn bị NATO và Mỹ từ chối, những nước thậm chí không muốn thảo luận về các vấn đề này.

Khi Nga cuối cùng tấn công Ukraine vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, đó là đỉnh điểm của nhiều năm xung đột. Một cuộc xung đột về cơ bản là về sự hiện diện của NATO ở các nước láng giềng của Nga và về việc ai sẽ có ảnh hưởng ở Ukraine.

Nguồn: Eliasson – proletaren.se – Thụy Điển

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang