Có Bất Kỳ “Một Nền Văn Hóa Nào – Ưu Việt Hơn Các Nền Văn Hóa Khác”?

Các quốc gia đồng nhất về chủng tộc, nhưng không đồng nhất về văn hóa (tôn giáo), dễ rạn nứt hơn nhiều so với điều ngược lại

Văn hóa có mối liên hệ với tôn giáo. Ảnh Pixabay

Gần đây, khi xin lỗi “các dân tộc bản địa” và tố cáo tội ác của giáo hội Công giáo, giáo hoàng Francis tuyên bố, “cộng đồng Thiên chúa giáo không bao giờ có thể để mình bị lây nhiễm bởi ý tưởng rằng, một nền văn hóa này ưu việt hơn một nền văn hóa khác”.

Điều này hàm ý rằng, tất cả các nền văn hóa đều bình đẳng – là một lập trường nguy hiểm, đặc biệt là vì nó dẫn đến thuyết tương đối và phủ nhận chân lý.

Đối với hầu hết người phương Tây ngày nay, từ văn hóa gợi lên những khác biệt ‘bề ngoài’ – trang phục hoặc thức ăn “kỳ lạ”. Tuy nhiên, trên thực tế, các nền văn hóa không gì khác hơn là những thế giới quan hoàn chỉnh và riêng biệt, với những tập hợp ‘đúng và sai’ độc đáo riêng biệt, thường bắt nguồn từ một tôn giáo hoặc nền tảng triết học.

Thật vậy, đối với một số nhà tư tưởng, chẳng hạn như nhà tiểu luận T.S Elliot, “văn hóa và tôn giáo” gắn bó chặt chẽ với nhau và là “những khía cạnh khác nhau của cùng một sự vật”.

Văn hóa là gì?

Văn hóa thậm chí có thể được mô tả đơn giản là thứ làm cho cuộc sống trở nên đáng sống. Văn hóa có thể xuất hiện hoặc phát triển, ngoại trừ liên quan đến một tôn giáo.

Có thể coi ‘tôn giáo’ là toàn bộ lối sống của một dân tộc, từ khi sinh ra đến khi chết, từ sáng đến tối và cả trong giấc ngủ, và lối sống đó cũng chính là văn hóa của nó (Elliot’s Notes Towards the Definition of Culture, 1943, tr.100-101).

Tương tự, nhà sử học Anh-Pháp Hilaire Belloc cho rằng: Các nền văn hóa bắt nguồn từ các tôn giáo; cuối cùng, lực lượng quan trọng duy trì bất kỳ nền văn hóa nào là triết lý của nó, thái độ của nó đối với vũ trụ; sự suy tàn của một tôn giáo kéo theo sự suy tàn của nền văn hóa tương ứng với nó – chúng ta thấy điều đó rõ ràng nhất trong sự tan rã của các tôn giáo ‘tự xưng’ theo ‘thiên chúa’ ngày nay.

Thực tế là, tất cả các giá trị truyền thống được phương Tây hiện đại đánh giá cao – tự do tôn giáo, lòng khoan dung, chủ nghĩa nhân văn, chế độ một vợ một chồng – không phát triển trong ‘chân không’, mà đúng hơn là bắt nguồn từ các nguyên tắc Thiên chúa giáo, mà trong khoảng 2000 năm đã hình thành và phát triển. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức xã hội, và tất nhiên là văn hóa phương Tây.

Mặc dù hiện nay, chúng được coi là điều hiển nhiên và được coi là “phổ quát”, nhưng có một lý do tại sao, những giá trị này được sinh ra và nuôi dưỡng trong các quốc gia theo đạo Thiên chúa – chứ không phải Hồi giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo hay Khổng giáo.

Tất cả những điều này bị bỏ qua bởi những người không biết gì về nguồn gốc tinh thần và trí tuệ của nền văn minh phương Tây – rõ ràng là bao gồm cả giáo hoàng Francis.

Tình cờ, đây là lý do tại sao những người phương Tây thế tục kiêu ngạo coi mình là đỉnh cao của toàn bộ lịch sử nhân loại – những nhà tư tưởng “khai sáng” đã bỏ lại sau lưng mọi hành trang văn hóa và tôn giáo, chỉ quan tâm đến vật chất.

Đối với họ, tất cả các tôn giáo và văn hóa đều là những thứ hời hợt mà cuối cùng sẽ bị tất cả các dân tộc trên thế giới lột bỏ. Thế giới phi phương Tây, theo suy nghĩ này, được định sẵn để phát triển giống như phương Tây, vốn không còn được coi là một nền văn hóa riêng biệt, mà là điểm kết thúc của mọi nền văn hóa.

Sự điên rồ của lối suy nghĩ như vậy đặc biệt được thể hiện trong bối cảnh Hồi giáo và những người theo đạo Hồi, những người mà trong mô hình mới này được coi là những người phương Tây ‘phôi thai’.

Xem thêm: Vì Sao Con Người Khó Giúp Đỡ Lẫn Nhau?

Xung đột văn hóa

Bất cứ điều gì, một người Hồi giáo có thể nói – kêu gọi thánh chiến, căm ghét những kẻ ngoại đạo – chắc chắn, sâu thẳm bên trong, anh ta coi trọng “chủ nghĩa thế tục” và đánh giá cao nhu cầu thực hành đạo Hồi một cách riêng tư và tôn trọng tự do tôn giáo và bình đẳng giới.

Vì vậy, anh ta được tạo ra “theo hình ảnh của chúng ta”, tất nhiên, ngoại trừ việc chúng ta quên đi gốc rễ của “hình ảnh của chúng ta”.

Trên thực tế, người Hồi giáo có thế giới quan và bộ nguyên tắc cổ xưa và độc đáo của riêng mình – nền văn hóa của riêng họ – từ đó thúc đẩy hành vi được coi là “cấp tiến” theo tiêu chuẩn phương Tây (được coi là tiêu chuẩn “phổ quát” một cách sai lầm).

Như T,S Elliot, người đã suy nghĩ rất nhiều về những câu hỏi này, đã viết, “cuối cùng, các tôn giáo đối kháng phải có nghĩa là các nền văn hóa đối kháng; và cuối cùng, các tôn giáo không thể được hòa giải”.

Việc cho rằng mô hình Thiên chúa giáo là “phổ quát”, và sau đó áp dụng nó vào một nền văn hóa xa lạ như Hồi giáo, chắc chắn sẽ thất bại.

Ý tưởng cho rằng người Hồi giáo có thể trung thành với tôn giáo của họ, nhưng vẫn phù hợp một cách tự nhiên với xã hội phương Tây là sai lầm và được xây dựng trên một tiền đề sai lầm không kém: Thiên chúa giáo (Cơ đốc giáo) bằng cách nào đó cũng phải tiết chế bản thân để phù hợp với một xã hội thế tục.

Trên thực tế, các nguyên tắc Thiên chúa giáo, rất xa lạ với Hồi giáo, lại là nền tảng cho sự hình thành phương Tây.

Vậy thì “chủ nghĩa đa văn hóa” – ‘cụm từ’ mà phương Tây đáng lẽ phải tán dương và đón nhận là gì?

Đằng sau nó là ý tưởng rằng, tất cả các nền văn hóa đều bình đẳng, và không có nền văn hóa nào – chắc chắn không phải là nền văn hóa Thiên chúa giáo hay phương Tây – “cao hơn các nền văn hóa khác” như lời của giáo hoàng.

Trên thực tế, chủ nghĩa đa văn hóa là một cách nói hoa mỹ, nhằm phá hoại và thay thế các chân lý của một tôn giáo và nền văn hóa khác, bằng thuyết tương đối.

Các dân tộc phương Tây trước đó hiểu rằng, đầu hàng trước một nền văn hóa nước ngoài chẳng khác nào tự sát.

Elliot cho rằng: Không thể tránh khỏi việc chúng ta, khi bảo vệ tôn giáo của mình, đồng thời bảo vệ nền văn hóa của mình, và ngược lại: Chúng ta đang tuân theo bản năng cơ bản để bảo tồn sự tồn tại của mình.

Một giai thoại đã ghi lại rất rõ “sự va chạm giữa các nền văn hóa” này. Sau khi các cường quốc thực dân Anh cấm Sati – tập tục của người Hindu (Ấn Độ giáo) thiêu sống một góa phụ trên giàn thiêu của chồng bà – các tu sĩ Hindu đã phàn nàn với thống đốc Anh Charles James Napier rằng, Sati là phong tục của họ và do đó là quyền của họ.

Napier đã trả lời:

Có thể là như vậy. Việc đốt góa phụ này là phong tục của bạn. Nhưng dân tộc tôi cũng có một phong tục. Khi đàn ông thiêu sống phụ nữ, chúng tôi treo cổ họ và tịch thu tất cả tài sản của họ. Do đó, những người thợ mộc của tôi sẽ dựng lên những chiếc giá treo để treo tất cả những gì liên quan khi người góa phụ bị thiêu. Tất cả chúng ta hãy hành động theo phong tục quốc gia.

Ngẫu nhiên, phản đối “chủ nghĩa đa văn hóa” – tức là thuyết tương đối – hoàn toàn không giống với việc phản đối các chủng tộc hoặc sắc tộc khác, mà là phản đối sự chia rẽ và hỗn loạn. 

Xét cho cùng, các quốc gia đồng nhất về chủng tộc nhưng không đồng nhất về văn hóa, dễ rạn nứt hơn nhiều so với điều ngược lại.

Người ta không cần tìm đâu xa hơn là đến Hoa Kỳ, nơi những người da trắng “cánh tả” và “cánh hữu” thường ghê tởm lẫn nhau.

Hoặc nhìn sang Trung Đông, nơi mà người Hồi giáo và Thiên chúa giáo phần lớn là đồng nhất – về chủng tộc, dân tộc và ngôn ngữ – nhưng nơi mà ‘người trước’ ngược đãi ‘người sau’ một cách tàn nhẫn, chỉ vì tôn giáo.

Nói tóm lại, ‘không có gì sai’ nếu công dân của một quốc gia bao gồm các chủng tộc và sắc tộc khác nhau, nhưng chỉ khi họ có cùng thế giới quan, cùng các ưu tiên, cùng đạo đức – nói một cách dễ hiểu là cùng một nền văn hóa.

Tác giả: Raymond Ibrahim,thành viên cao cấp Viện Gatestone

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang