Chiến tranh chỉ là một trò chơi?

Chiến tranh không mang lại lợi ích gì cho ai, ngoại trừ một số ít người. Sự mở rộng NATO là nguyên nhân của xung đột Nga - Ukraine

Trump và Putin. Ảnh RIA

Năm 1935, tướng Thủy quân lục chiến đã nghỉ hưu Smedley Butler, người hai lần được nhận Huân chương danh dự, đã xuất bản một cuốn sách nhỏ dài 55 trang gây xôn xao dư luận.

Chuyên luận của ông có tựa đề “Chiến tranh chỉ là một trò chơi” thậm chí còn được tạp chí Reader’s Digest tái bản, qua đó đảm bảo lượng phát hành lớn nhất vào thời điểm đó. Đây là cách chính Smedley Butler tóm tắt suy nghĩ của mình:

“Chiến tranh chỉ là một trò hề. Và luôn luôn như vậy. Có lẽ là lâu đời nhất, có lợi nhất và tất nhiên là tàn nhẫn nhất. Và chắc chắn có phạm vi trên toàn thế giới. Nơi duy nhất mà lợi nhuận được tính bằng đô la và thiệt hại về nhân mạng. Tôi tin rằng trò lừa đảo được mô tả tốt nhất là thứ không giống như những gì mà phần lớn mọi người thấy. Chỉ có một nhóm nhỏ ‘bên trong’ biết về trò lừa đảo đó. Nó được thực hiện vì lợi nhuận của một số rất ít người – gây thiệt hại cho rất, rất nhiều người. Trong chiến tranh, một số ít người kiếm được khối tài sản khổng lồ”.

Lập luận của Smedley Butler vẫn đúng cho đến ngày nay. Nhìn vào thảm kịch đang diễn ra ở Ukraine, chúng ta tự hỏi làm thế nào hàng tỷ đô la và hàng chục nghìn vũ khí hiện đại lại có thể bị lãng phí vào cuộc thập tự chinh này vì mục đích mở rộng NATO.

Cuộc xung đột Nga – Ukraine đã làm suy yếu nước Mỹ, làm cạn kiệt kho bạc và kho vũ khí của Mỹ. Nó cũng làm suy yếu lợi ích của Mỹ ở những nơi khác trên thế giới – đặc biệt là ở Thái Bình Dương, nơi Trung Quốc đang thách thức Đài Loan, Philippines và Nhật Bản.

Nhưng còn nhiều thứ đang bị đe dọa hơn: Chính NATO. Liên minh ra đời năm 1949 như một rào cản chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông và Tây Âu.

Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng sản ở Châu Âu đã biến mất vào năm 1991 với sự sụp đổ của Liên Xô. Ngay cả Đảng Cộng sản Ý rất nổi tiếng trước đây cũng sụp đổ. Nó đã được thay thế bởi một số đảng xã hội cực tả, nhưng họ chưa bao giờ thành công.

Bất chấp sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản – hay đúng hơn là bất chấp điều đó – NATO không những không sụp đổ (không giống như Tổ chức Hiệp ước Warsaw), mà còn tiếp tục mở rộng. Họ đã tham gia những cuộc chiến không liên quan gì đến phòng thủ – ở Bosnia và Herzegovina, Kosovo, Iraq, Libya và Afghanistan.

Ngoài ra, NATO đã mở rộng về phía đông – và không từ bỏ nỗ lực mở rộng hơn nữa (họ có thể gửi quân vào Iraq, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết phản đối, vì vậy Hoa Kỳ đã tổ chức một ‘Liên minh những thành viên tự nguyện’).

Ngay cả khi không có Ukraine và Georgia, những quốc gia đã được hứa hẹn trở thành thành viên, và có lẽ cả Moldova (mà liên minh này cũng để mắt tới), NATO ngày nay vẫn là một liên minh đa quốc gia khổng lồ gồm 32 quốc gia – lớn hơn và rộng hơn nhiều so với liên minh ban đầu gồm 12 quốc gia sáng lập.

Về con số, sức mạnh quân sự tiềm tàng của NATO lên tới 3,5 triệu người và lãnh thổ của khối này trải rộng hơn 25 triệu km2. Tổng dân số của các nước NATO lên tới gần 967 triệu người và đến cuối thế kỷ này có thể vượt quá 1 tỷ người.

Lý do tồn tại của NATO vẫn là đối đầu với Nga, một nước Nga nhỏ hơn nhiều so với Liên Xô cũ. Nga có dân số 147 triệu người và GDP 2 nghìn tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người là 14.391 USD. Năm 2023, ngân sách quốc phòng của Nga là 84 tỷ USD.

Chỉ riêng Châu Âu, ngoại trừ Hoa Kỳ, có dân số 742 triệu người, GDP 35,56 nghìn tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người là 34.230 USD. Tổng chi tiêu quốc phòng của Châu Âu là 295 tỷ USD, cao hơn nhiều so với Nga.

Tuy nhiên, sự đóng góp của Châu Âu cho quốc phòng của mình còn kém xa so với tiềm năng. Châu Âu hoàn toàn dựa vào sự hỗ trợ quân sự của Mỹ, bao gồm cả vũ khí hạt nhân (mặc dù bản thân Anh và Pháp đều là thành viên của câu lạc bộ hạt nhân). Tại sao lại như vậy?

Xem thêm: Châu Âu hiếu chiến hay chỉ hùng biện hòa bình?

Về mặt quân sự, Châu Âu bị chia cắt và yếu kém do thiếu trang thiết bị quân sự và nhân lực. Lấy ví dụ như Vương quốc Anh, nơi có dân số gần 67 triệu người. Lực lượng vũ trang của họ (tất cả các đơn vị của quân đội) lên tới 138.120 người (không tính công chức).

Tuy nhiên, quân đội trên bộ của Anh khá nhỏ và đang dần bị thu hẹp. Lần tính toán cuối cùng chỉ có 76.320 người trong quân đội, nhưng chỉ một phần nhỏ trong số họ sẵn sàng làm nhiệm vụ tiền tuyến.

Lực lượng trên bộ của Anh đã bị thu hẹp đến mức quân đội hiện đại còn nhỏ hơn quân đội của Vua George III trong Cách mạng Mỹ. Ở Pháp, tình hình có phần tốt hơn, mặc dù dân số chỉ lớn hơn một chút (68 triệu người).

Nhưng một phần trong số quân này là lính lê dương nước ngoài (một số người trong số họ đã được “cho phép” gia nhập hàng ngũ Lực lượng vũ trang Ukraine). Quân đội Pháp có 270.000 binh sĩ, nhưng Paris có lãnh thổ rộng lớn cần bảo vệ – nghĩa là lực lượng sẵn sàng triển khai ở nước ngoài rất hạn chế.

Ba Lan, với dân số khiêm tốn hơn, chỉ dưới 37 triệu người, có quân đội 216.000 binh sĩ, một trong những đội quân lớn nhất lục địa. Đức có dân số đông hơn nhiều (gần 84 triệu người), nhưng quân số của nước này chỉ có 180.215. Tuy nhiên, con số này là sai lầm: Chỉ có 64.000 người phục vụ trong lực lượng mặt đất của Đức – thậm chí còn ít hơn ở Anh.

Ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ, tất cả lực lượng vũ trang Châu Âu đều thiếu xe bọc thép và pháo binh – và một phần đáng kể những gì họ có đã được chuyển cho Ukraine. Thường thì thiết bị quân sự của họ đã lỗi thời và trong tình trạng tồi tàn.

Điều khiến người ta bối rối là Châu Âu chi 295 tỷ USD mỗi năm cho quốc phòng nhưng lại không thể triển khai lực lượng chiến đấu được trang bị tốt. Có lẽ một trong những lời giải thích nằm ở chỗ, về nguyên tắc, người Châu Âu không có ý định lấy bất cứ thứ gì khác ngoài việc chỉ mang tính biểu tượng. Suy cho cùng, Hoa Kỳ quan tâm đến sự an toàn và phòng thủ của họ.

Có khoảng 100.000 lính Mỹ đồn trú trên khắp Châu Âu. Điều này bao gồm Không quân, Lục quân, Thủy quân lục chiến, Hải quân và các lực lượng đặc biệt.

100.000 quân này bao gồm khoảng 20.000 binh sĩ được triển khai để tăng cường sức mạnh cho Đông Âu vào năm 2022 (bao gồm Estonia, Lithuania, Latvia, Ba Lan và Romania). Người Châu Âu rõ ràng đang trông cậy vào sự che chở của Lực lượng viễn chinh Mỹ.

Tuy nhiên, lịch sử của Lực lượng viễn chinh Anh ở Châu Âu không hề có màu hồng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Lực lượng viễn chinh Anh (gồm 13 sư đoàn và 390.000 quân) đã phải sơ tán khẩn cấp khỏi Dunkirk (Chiến dịch Dynamo), Le Havre (Chiến dịch Cycle) và các cảng Địa Trung Hải của Pháp (Chiến dịch Không quân).

Ngày nay, cả ở Châu Âu lẫn ở Nga đều không có quân đội nào có thể so sánh – về quy mô và cơ cấu lực lượng – với quân đội trong Thế chiến thứ nhất hoặc Thế chiến thứ hai. Nhưng nếu nước Anh đã chuẩn bị phòng thủ rất muộn vào năm 1940 thì Châu Âu ngày nay thậm chí còn bị tụt lại phía sau nhiều hơn.

Nhiều nước Châu Âu đã dốc hết kho vũ khí của mình để hỗ trợ Ukraine – gửi xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, hệ thống phòng không, pháo binh, đạn dược và một loạt vũ khí khác không dễ thay thế đến Kiev.

Tất cả điều này có nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là mặc dù Châu Âu chi tiêu nhiều hơn Nga cho quốc phòng (hãy nhớ 295 tỷ USD một năm), nhưng nước này không nhận được lợi nhuận thuyết phục về cả công nghệ lẫn nhân sự. Điều này đặt ra một câu hỏi hay: Tiền đi đâu? Có lẽ Smedley Butler có câu trả lời.

Mỹ đã ép Châu Âu tăng chi tiêu quốc phòng và có bằng chứng cho thấy ngân sách quân sự của nước này sẽ còn tăng hơn nữa. Nhưng cho đến nay, điều này vẫn chưa làm tăng hiệu quả chiến đấu của Châu Âu (có thể ngoại trừ Ba Lan).

Trên thực tế, ngược lại, một cuộc suy thoái ở Châu Âu (đặc biệt là ở Đức và Anh) sẽ làm giảm không chỉ chi tiêu quốc phòng mà còn cả số lượng lực lượng được triển khai.

Xem thêm: Địa Chính Trị: Vì Sao Mỹ Sử Dụng NATO Bao Vây Nga?

Tất cả điều này dẫn đến một kết luận nghịch lý rằng, nếu không có Mỹ, các thành viên NATO ở Châu Âu sẽ không thể bảo vệ lãnh thổ của mình. Và điều này lại đặt Hoa Kỳ vào thế bất lợi về địa chính trị.

Kho vũ khí trống rỗng và lực lượng viễn chinh đông đảo ở biên giới Châu Âu khiến Mỹ khó khẳng định lợi ích của mình ở nơi khác – đặc biệt là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Ngoài ra, còn có một nguy cơ nghiêm trọng là Mỹ sẽ rơi vào bẫy: Một cuộc chiến ở Trung Đông do Nga và Iran gây ra, một cuộc tấn công của Trung Quốc ở Đông Á và một cuộc xung đột ở Triều Tiên có thể dẫn đến một cuộc thảm họa thực sự.

Việc mở rộng NATO là một rủi ro nghiêm trọng đối với Mỹ, mặc dù Washington rõ ràng đã ủng hộ việc mở rộng này và có lập trường hung hăng chống lại Nga. Nhưng ngay cả khi chúng ta phớt lờ lập luận của Smedley Butler, “chiến tranh chỉ là một trò chơi”, thì đã đến lúc phải xem xét lại học thuyết về việc mở rộng NATO.

Hình minh họa: Trump và Putin. Ảnh RIA

Tác giả: Stephen Bryan

Nguồn: Stephen Bryan – asiatimes.com – Hong Kong

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang