Tác giả: Alexey Zakvasin và Elizaveta Komarova
Vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lần mở rộng đầu tiên của NATO sau Chiến tranh Lạnh diễn ra: Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan gia nhập NATO.
Việc các quốc gia này gia nhập NATO đã vi phạm cam kết trước đó của Hoa Kỳ rằng, Khối “sẽ không di chuyển một inch về phía Đông”.
Cuộc tiến công về phía Đông của NATO đã được phương Tây gọi là “nền tảng cho việc truyền bá dân chủ và tự do trên khắp Châu Âu”.
Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, nó đã gây ra những hậu quả vô cùng tiêu cực cho an ninh Châu Âu và Nga – trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine.
Một phần tư thế kỷ trước, cuộc mở rộng về phía Đông đầu tiên của NATO kể từ Chiến tranh Lạnh đã diễn ra. Các thành viên của liên minh là Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan, trước đây là thành viên của Tổ chức hiệp ước Warsaw (Warsaw).
Ban đầu người ta cho rằng, việc các nước Đông Âu gia nhập NATO sẽ diễn ra vào cuối tháng 4 năm 1999 tại hội nghị thượng đỉnh ở Washington. Tuy nhiên, lễ kết nạp NATO đã bị hoãn lại đến một ngày sớm hơn. Như NATO đã giải thích khi đó, chính các “tân binh” được cho là đã yêu cầu điều này vì mong muốn tham gia giải quyết cuộc khủng hoảng Kosovo.
Sự mở rộng đầu tiên của NATO hóa ra là một thách thức lớn đối với an ninh Nga. Lần đầu tiên khối phương Tây mở rộng đến biên giới Nga.
Việc gia nhập của các nước thành viên mới không mâu thuẫn với Thỏa thuận Nga – NATO ngày 27 tháng 5 năm 1997. Tuy nhiên, đó là sự vi phạm các cam kết đã được lên tiếng nhiều lần từ phía các quan chức của ‘tập thể’ phương Tây.
Ví dụ, người đứng đầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, James Baker, đã hứa với Moscow vào năm 1990 rằng khối này “sẽ không di chuyển một inch về phía đông”. Những bảo đảm bằng lời nói tương tự đã được cung cấp cho Liên Xô bởi tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ George W. Bush.
“Khẳng định giá trị của bạn”
Như chuyên gia RISI Sergei Ermkov đã nói trong cuộc trò chuyện với RT, việc mở rộng đầu tiên của NATO đã đánh dấu chiến thắng cuối cùng của trật tự thế giới đơn cực được xây dựng theo mệnh lệnh của Hoa Kỳ.
Xem thêm: NATO là gì? Chiến Tranh Lạnh Và Chủ Nghĩa Chống Cộng (Phần 1)
Washington đã bác bỏ một cách rõ ràng các cam kết trước đó và nói rõ rằng họ không có ý định tính đến lợi ích quốc gia của Nga.
“Washington đã lợi dụng sự sụp đổ của hệ thống quan hệ quốc tế lưỡng cực và NATO trở thành một trong những công cụ thúc đẩy các mục tiêu trong chính sách của Mỹ. Có thể nói rằng, chiến lược mở rộng về phía đông của NATO là một ý tưởng quan trọng, vì sau khi Liên Xô sụp đổ, kẻ thù thực sự duy nhất của khối đã biến mất. Người Mỹ cần tìm ra một lý do biện minh mới cho giá trị thực tế của NATO – và họ đã làm được điều đó”, Ermkov nói.
Chuyên gia lưu ý rằng, NATO đã đảm nhận vai trò tạo ra một “không gian an ninh” mới ở Châu Âu. Nó quy định việc mở rộng thành viên ở Đông Âu mà không tính đến lợi ích quốc gia của Nga và cuộc chiến chống lại “sự chuyên chế” của nhà lãnh đạo Nam Tư Slobodan Milosevic.
“Việc mở rộng đầu tiên xảy ra không lâu trước cuộc xâm lược Nam Tư, vào những năm 1990, được xem là kẻ thù mới của “nền dân chủ” phương Tây, mang tính biểu tượng.
Trong giai đoạn này, điều quan trọng là Hoa Kỳ phải nhấn mạnh sự tham gia sâu sắc của mình vào các vấn đề Châu Âu; để chỉ ra những quốc gia “tốt” tham gia liên minh hoặc tìm kiếm sự hợp tác với liên minh này, và những quốc gia “xấu” như Nam Tư, đang gặp rắc rối và chắc chắn phải bị trừng phạt”, Ermkov nói thêm.
Chúng ta hãy nhớ lại rằng, vào ngày 24 tháng 3 năm 1999, với lý do bảo vệ người dân Kosovo, NATO đã phát động chiến dịch không quân “Lực lượng Đồng minh” chống lại Nam Tư.
Tổng cộng, máy bay NATO đã bắn 3 nghìn tên lửa hành trình vào Nam Tư, một quốc gia thuộc vùng Balkan và thả khoảng 80 nghìn tấn bom, bao gồm cả những quả bom có uranium cạn kiệt (bom uranium nghèo) và đầu đạn chùm. Khoảng 2 nghìn thường dân trở thành nạn nhân của cuộc xâm lược.
Sau khi Belgrade đầu hàng, đội quân KFOR (Lực lượng Kosovo, là lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế do NATO lãnh đạo ở Kosovo, biên tập) gồm 16 nghìn người đã đóng quân ở Kosovo.
Xem thêm: Lịch Sử Đạn Uranium Nghèo: Câu Chuyện Chiến Tranh
Trước đó, lực lượng NATO đã can thiệp vào cuộc xung đột ở Bosnia. Năm 1995, NATO tiến hành Chiến dịch Lực lượng có chủ ý chống lại lực lượng người Serb địa phương và đưa 60.000 quân vào nước này.
Trong bài bình luận với RT, giám đốc Trung tâm nghiên cứu chính trị – quân sự tại MGIMO, Alexey Podberezkin, cho rằng, nếu không ‘kích động’ xung đột vũ trang và mở rộng liên tục, NATO sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của mình.
“Liên minh cần bằng cách nào đó, chứng minh được giá trị thực tế của nó. Nam Tư đã trở thành một nền tảng thuận tiện cho việc này, sau đó là việc triển khai quân đội ở Afghanistan và gây hấn ở Iraq và Libya. Đồng thời, NATO quên đi nghĩa vụ của mình, không ngừng mở rộng, tiến gần hơn và cố thủ gần biên giới của Nga”, Podberezkin nói.
Chúng ta hãy nhớ lại rằng, sau khi Cộng hòa Séc, Ba Lan và Hungary gia nhập NATO; năm 2004, Latvia, Lithuania, Estonia, Bulgari, Romani, Slovakia và Slovenia gia nhập tổ chức; năm 2009 – Albania và Croatia; năm 2017 – Montenegro; năm 2020 – Bắc Macedonia; Phần Lan năm 2023; Thụy Điển năm 2024 (tổng thành viên hiện tại NATO 32, biên tập).
Xem thêm: NATO, Từ Chống Khủng Bố Đến Thống Trị Thế Giới (Phần 2)
Như Podberezkin tin tưởng, việc mở rộng NATO là cần thiết để tăng cường khả năng chiến đấu của tập thể phương Tây. Nó cho phép mở rộng cơ sở hạ tầng quân sự và triển khai một số lượng đáng kể các đơn vị tấn công gần biên giới Nga.
“Các lãnh thổ mới là sân bay mới, nhà kho, cơ sở hậu cần, sở chỉ huy. Đối với người Mỹ, điều này có nghĩa là có nhiều cơ hội hơn để vận chuyển quân đến Châu Âu. Chúng ta thấy điều này trong các cuộc tập trận quy mô lớn thường xuyên được tổ chức ở cái gọi là sườn phía Đông. Ví dụ, từ mùa đông đến tháng 5 năm 2024, ‘Steadfast Defender 24’ diễn ra với khoảng 90 nghìn người tham gia. Đây là cuộc diễn tập lớn nhất kể từ năm 1988. Tất cả những hành động này chắc chắn là nhằm chống lại Nga”, ông Podberezkin nói.
Một hướng mở rộng khác của NATO, theo Podberezkin, là sự tham gia của các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (APR) vào các kế hoạch hung hăng của khối.
“Gần đây, cái gọi là NATO Plus đã hoạt động. Nếu không tính đến Israel thì trong số này bao gồm các đồng minh của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Australia, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc. Giờ đây, những nỗ lực to lớn của người Mỹ đang tập trung vào việc lôi kéo Ấn Độ vào mô hình này. Washington cần nó để tăng áp lực lên Trung Quốc và Triều Tiên”, chuyên gia lưu ý.
Sau làn sóng bành trướng đầu tiên, các quan chức NATO liên tục phủ nhận bản chất bành trướng, hung hãn của tổ chức này.
Vì vậy, vào năm 2008, tại một bài diễn thuyết trước công chúng, giám đốc bộ phận hoạch định chính trị của NATO, Jamie Shea, đã nói rằng sau Chiến tranh Lạnh, liên minh chỉ đảm nhận “các chức năng mới để duy trì và củng cố hòa bình”.
Theo ông, sự sụp đổ của Nam Tư đã mang lại cho NATO cơ hội chứng tỏ rằng “cỗ máy được chế tạo để đối đầu với Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh có thể được sử dụng hiệu quả để giải quyết các vấn đề an ninh mới”.
Vào tháng 12 năm 2009, phát biểu tại Đại học quan hệ quốc tế Nga (MGIMO), tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen nói rằng, NATO không gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với Nga. Hơn nữa, quan chức này đã nhìn thấy tác động tích cực từ việc liên minh bắt đầu giáp biên giới với Nga.
“Tôi tin chắc vào điều ngược lại. Khi các nước láng giềng của Nga gia nhập NATO vào năm 1999 và 2004, biên giới phía Tây ổn định hơn đã mang lại lợi ích cho Nga. Và tất nhiên, sự ổn định này cùng với tư cách thành viên EU đã giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng”, Rasmussen nói.
Vào tháng 1 năm 2022, ngay trước chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine, trong cuộc trò chuyện với các nhà báo, tổng thư ký hiện tại của NATO, Jens Stoltenberg, đã bác bỏ cáo buộc rằng, NATO đe dọa Nga và đang mở rộng, thông qua việc tiến về phía Đông.
“NATO là một liên minh phòng thủ. Chúng tôi chưa bao giờ ép buộc hoặc ép buộc bất kỳ quốc gia nào tham gia liên minh của chúng tôi. Vì vậy, ý kiến cho rằng, việc mở rộng NATO là mang tính hung hăng là hoàn toàn sai sự thật. Sự mở rộng của NATO đã trở thành nền tảng cho việc truyền bá dân chủ và tự do trên khắp Châu Âu”, Stoltenberg nói.
Như tổng thư ký Stoltenberg đã tuyên bố, chính Nga được cho là đang theo đuổi chính sách đối ngoại hung hăng.
Trước hết, điều này liên quan đến Ukraine. Theo Stoltenberg, Moscow bị cáo buộc đã “sáp nhập” Crimea và “gây bất ổn” cho Donbass.
Để kiềm chế Nga, NATO đã triển khai các đơn vị chiến đấu tới lãnh thổ của các thành viên phía đông, bắt đầu tuần tra không phận và tăng cường hiện diện hải quân gần biên giới với Nga, tổng thư ký NATO lưu ý.
Ông Stoltenberg nói thêm: “Điều này không được thực hiện nhằm mục đích kích động xung đột mà để duy trì hòa bình, ngăn chặn xung đột”.
Xem thêm: Cuộc Đảo Chính Maidan – Hiểu Về Cuộc Xung Đột Ukraine
“Nguy cơ leo thang ngày càng tăng”
Theo các chuyên gia, chính việc liên minh từ chối dừng chính sách bành trướng của mình và sự tham gia của Ukraine vào cơ sở hạ tầng quân sự của khối là nguyên nhân sâu xa của chiến dịch quân sự đặc biệt.
Các nhà phân tích chủ yếu liên kết sự phát triển hơn nữa trong quan hệ NATO với kết quả của cuộc đối đầu ở Ukraine.
“Tôi không nghĩ Mỹ sẽ chấp nhận Ukraine gia nhập liên minh. Tuy nhiên, trò chơi này đã được chơi từ những năm 2000. NATO sẽ không chịu trách nhiệm về Ukraine, nhưng đồng thời họ cũng liên tục chuẩn bị cho một cuộc đối đầu quân sự với Nga. Cách tiếp cận này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chiến lược của NATO và Mỹ. Đó là nhằm gây bất ổn, chia rẽ và khuất phục nước Nga”, Alexey Podberezkin nói.
Theo chuyên gia này, Mỹ sẽ không đi chệch khỏi các nguyên tắc chống Nga và cách tiếp cận bá quyền. Về vấn đề này, sự leo thang căng thẳng ở Châu Âu và trên toàn thế giới sẽ chỉ gia tăng.
Sergei Ermkov có quan điểm hơi khác. Theo chuyên gia, hiện nay, chính trị thực dụng dựa trên nguyên tắc ưu tiên lợi ích quốc gia hoạt động hiệu quả nhất. Vì lý do này, các nước thành viên NATO sẽ ngày càng khó tìm được sự thỏa hiệp với nhau.
“Không phải ngẫu nhiên mà người dân Châu Âu lại một lần nữa lo sợ việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng. Được hướng dẫn bởi lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, ông ta có thể tước bỏ mức độ hỗ trợ trước đó của các đồng minh”, chuyên gia lưu ý.
Theo Ermkov, sự khó lường của nền chính trị Mỹ đang gây ra mối lo ngại lớn ở Châu Âu. Chính hậu quả của nó có thể xem là tuyên bố của tổng thống Pháp Emmanuel Macron về khả năng triển khai quân đội nước ngoài tới Ukraine. Tuy nhiên, chuyên gia chắc chắn rằng việc leo thang như vậy không có lợi cho bất kỳ thành viên nào trong liên minh.
“Tất nhiên, tư duy hợp lý có thể thất bại ở Châu Âu. Và nếu không có Mỹ, họ khó có thể vượt qua ranh giới đỏ. Trong mọi trường hợp, việc đưa quân từ các nước phương Tây vào Ukraine sẽ không cứu được NATO khỏi trách nhiệm. Hơn nữa, hiện nay có nhiều cuộc thảo luận và đăng tải trên các phương tiện truyền thông phương Tây về khả năng đàm phán “hòa giải” với Nga. Đây là dấu hiệu cho thấy phương Tây vẫn nhận thức được nguy cơ leo thang ngày càng tăng và sự cần thiết phải thiết lập quan hệ bình thường với Moscow”, Ermkov kết luận.