Tác giả: Alexander Odintsov
Rõ ràng nguyên nhân sâu xa của cuộc Đại suy thoái (1929-1933) là sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào mùa thu năm 1929, và trước đó là sự bùng nổ kinh tế của những năm 1920 “ầm ầm” trong bối cảnh chính sách “mềm” của Cục dự trữ liên bang (Fed).
Nhưng điều gì đã xảy ra vào mùa thu năm 1930, gây ra thảm họa kinh tế ở Mỹ kéo dài gần như suốt những năm 30? Suy cho cùng, cuộc suy thoái nghiêm trọng trước đó, theo Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia, chỉ kéo dài 18 tháng – từ tháng 1 năm 1920 đến tháng 7 năm 1921.
Cuộc Đại suy thoái là một trong những cuộc khủng hoảng ‘tồi tệ’ nhất trong lịch sử hiện đại, trong đó nước Mỹ, dựa trên tất cả những thành tựu của công nghiệp, công nghệ và khoa học, đã bị đẩy lùi toàn diện, và người dân của nước này, đang tìm kiếm bất kỳ công việc và mẩu bánh mì nào, để tồn tại. Thật khó để tưởng tượng một sự sỉ nhục lớn hơn đối với những người Mỹ kiêu hãnh, những người tin rằng nếu bạn có đầu và tay, bạn có thể giải quyết mọi vấn đề.
Phản ứng của chính phủ trước sự khởi đầu của Đại khủng hoảng: Hãy kiên nhẫn
Mọi người đều hiểu rất rõ rằng, vụ sụp đổ thị trường chứng khoán xảy ra vào mùa thu năm 1929 sẽ không qua đi mà không để lại dấu vết. Nhưng chính quyền Mỹ, nơi tuyên bố học thuyết nhà nước không can thiệp vào các vấn đề thị trường (học thuyết thị trường tự do, biên tập), tin rằng mọi thứ sẽ tự phục hồi sau khoảng 2 tháng.
Tổng thống Herbert Hoover và bộ trưởng tài chính Andrew Mellon kêu gọi công chúng hãy kiên nhẫn – hứa rằng quá trình phục hồi kinh tế sắp bắt đầu.
Mellon tin rằng liệu pháp sốc sẽ là phản ứng tốt nhất đối với cuộc Đại khủng hoảng:
“Loại bỏ lực lượng lao động, thanh lý hàng tồn kho, ‘thanh lý’ nông dân, cấm bán những lô đất lớn … Điều này sẽ loại bỏ tình trạng mục nát trong hệ thống. Chi phí sinh hoạt cao sẽ ngay lập tức trở nên thấp hơn. Mọi người sẽ làm việc chăm chỉ hơn và đạo đức sẽ chi phối cuộc sống của họ. Sẽ có sự điều chỉnh giá tự động và những doanh nhân thông minh sẽ thay thế những kẻ thua cuộc ngu ngốc”.
Khi thất bại được nhận ra, một số biện pháp cơ bản đúng đắn (chính phủ mua nông sản, hỗ trợ các ngân hàng và công ty) đã được thực hiện, nhưng chúng được thực hiện một cách nửa vời và thiếu nhất quán.
Kết quả là cuộc Đại khủng hoảng vẫn tiếp tục. Một số nhà phê bình theo ‘chủ nghĩa thị trường tự do’ vẫn tin rằng F. D. Roosevelt chỉ đang sử dụng di sản của Hoover: Nhưng điều này không đúng.
Hãy đưa ra một ví dụ.
Giữa sự sụp đổ của hệ thống tài chính, Herbert Hoover đã thành lập RFC (công ty tài chính tái thiết) vào ngày 22 tháng 1 năm 1932. Là một phần công việc của mình, 1,62 tỷ USD đã được chi cho các biện pháp bảo vệ thuần túy: Hỗ trợ hệ thống ngân hàng, mua lại trái phiếu của các công ty đường sắt – tài sản lớn nhất trong danh mục đầu tư của ngân hàng. Tuy nhiên, những biện pháp này không mang lại kết quả – tiền dường như tan thành cát bụi.
Bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ đều đòi hỏi phải tăng chi tiêu và thâm hụt ngân sách, điều này trái ngược hoàn toàn với quan điểm kinh tế thời đó.
Khủng hoảng ngân hàng: Điểm không thể quay lại
Năm 1929, Hoa Kỳ có khoảng 25.568 ngân hàng. Với tài sản 72,3 tỷ USD, vốn chủ sở hữu của các ngân hàng là 9,8 tỷ USD và nợ của họ là 58,9 tỷ USD.
Trước khi cơn hoảng loạn bắt đầu, hơn 8.000 ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của Cục dự trữ liên bang, nhưng gần 16.000 ngân hàng thì không. Một phần đáng kể tài sản của ngân hàng bao gồm chứng khoán, các khoản vay có bảo đảm bằng chứng khoán, bất động sản đô thị và đất ở nông thôn.
Sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, hầu hết chứng khoán và bất động sản đều mất giá mạnh, và một phần đáng kể các khoản vay không thể trả được, trong khi nguồn lực của các ngân hàng giảm mạnh do tiền gửi hộ gia đình bị rút đi ồ ạt và số dư của doanh nghiệp giảm. Tài sản và nợ của các ngân hàng bắt đầu cạn kiệt. Kết quả là, ngân hàng phá sản hàng loạt.
Vào mùa thu năm 1930, cuộc khủng hoảng ngân hàng bắt đầu. Quá trình này bắt đầu với sự sụp đổ của Tập đoàn Caldwell, công ty nắm giữ tài chính lớn nhất ở miền nam nước Mỹ. Tài sản của Caldwell bị ảnh hưởng sau vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929. Người dân tìm cách rút tiền – việc thiếu bảo hiểm tiền gửi, khiến việc rút tiền trở thành biện pháp bảo vệ đáng tin cậy nhất.
Như Gary Richardson viết trong nghiên cứu của mình:
“Vào ngày 7 tháng 11 năm 1929, một trong những công ty con lớn của Caldwell, Bank of Tennessee (Nashville), đóng cửa. Vào ngày 12 và 17 tháng 11 năm 1929, các chi nhánh Knoxville, Tennessee và Louisville, Kentucky của Caldwell cũng phá sản”.
“Sự phá sản của các tổ chức này đã gây ra một làn sóng tương ứng, buộc hàng chục ngân hàng thương mại phải tạm dừng hoạt động. Sự hoảng loạn lan rộng từ thành phố này sang thành phố khác. Trong vòng vài tuần, hàng trăm ngân hàng đã ngừng hoạt động. Khoảng 1 phần 3 số ngân hàng này mở cửa trở lại trong vòng vài tháng, nhưng hầu hết đều phá sản”.
“Sự hoảng loạn bắt đầu lắng xuống vào đầu tháng 12. Nhưng vào ngày 11 tháng 12, ngân hàng lớn thứ tư của New York, Bank of America, đã phá sản. Ngân hàng này đang đàm phán sáp nhập với một tổ chức khác. Fed tại New York đã giúp tìm kiếm đối tác sáp nhập. Khi các cuộc đàm phán đổ vỡ, người gửi tiền đổ xô rút tiền”.
“Sự kiện này, giống như sự sụp đổ của Caldwell, tin tức đã lan truyền khắp nước Mỹ, làm dấy lên lo ngại về trận chiến tài chính và khiến những người gửi tiền lo lắng”.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Atlanta (Quận 6). Tuy nhiên, các quan chức của Fed ở Atlanta đã hỗ trợ tích cực cho các ngân hàng địa phương, khuyến khích các ngân hàng thành viên của Fed cấp tín dụng cho những người không phải là thành viên của họ và chuyển vốn đến các thành phố bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng ngân hàng.
Đồng thời, Fed tại St. Louis (Quận 8) hạn chế cho vay ưu đãi và từ chối giúp đỡ các tổ chức không thuộc Fed. Kết quả là, ở Quận 6, tình trạng suy thoái kinh tế chậm lại, còn ở Quận 8, hàng trăm ngân hàng phá sản, cho vay giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Cuộc khủng hoảng ngân hàng quốc gia đầu tiên xảy ra trùng hợp với cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Âu và đạt đến đỉnh điểm sau khi Vương quốc Anh từ bỏ chế độ bản vị vàng vào mùa thu năm 1931.
Năm 1932, một bộ phận đáng kể các ngân hàng đã cố gắng hạn chế việc phát hành tiền mặt cho người gửi tiền. Tiền lệ đầu tiên được đặt ra bởi bang Nevada, bang này đã đóng cửa tất cả các ngân hàng của bang vào tháng 10 năm 1932.
Cuộc khủng hoảng quốc gia lần thứ hai bắt đầu vào mùa đông năm 1933, vào tháng 2 năm 1933, khi một trong những ngân hàng lớn sụp đổ ở Detroit. Một cuộc hoảng loạn ngân hàng bắt đầu ở Michigan, và vào ngày 14 tháng 2 năm 1933, thống đốc đã đóng cửa tất cả các ngân hàng để bảo vệ họ khỏi phá sản. Làn sóng đóng cửa ngân hàng quét qua nhiều bang.
Năm 1921, tổng số ngân hàng thương mại là 29.788, năm 1929 là 25.568. Nhưng đến năm 1933, số lượng ngân hàng là 14.404, giảm khoảng 11.000.
Như vậy, trong giai đoạn từ 1929 đến 1933, khoảng 40% ngân hàng đã ngừng hoạt động. Điều này gây ra “hiệu ứng phá sản” của hệ thống.
Như Ben Bernanke thẳng thắn viết:
“… cung cấp … cứu trợ cho hệ thống ngân hàng là trọng tâm trong mục đích ban đầu của Fed. Việc Fed không hoàn thành sứ mệnh của mình … phần lớn là kết quả của quan điểm kinh tế của ban lãnh đạo”.
Nhiều quan chức Fed tán thành luận điểm “theo chủ nghĩa thanh lý” khét tiếng của bộ trưởng tài chính Andrew Mellon, người lập luận rằng việc loại bỏ các ngân hàng “yếu kém” là một điều kiện khắc nghiệt nhưng cần thiết để khôi phục hệ thống ngân hàng.
Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng gặp khó khăn đều tương đối nhỏ và không phải là thành viên của Hệ thống dự trữ liên bang, khiến số phận của họ trở nên ‘ít thú vị’ hơn đối với các nhà hoạch định chính sách của Fed.
Cuối cùng, các quan chức Fed quyết định không can thiệp vào cuộc khủng hoảng ngân hàng, qua đó một lần nữa góp phần khiến nguồn cung tiền giảm mạnh”.
Xem thêm: Thâm Hụt Kép Tàn Phá Nền Kinh Tế Mỹ?
Thảm họa kinh tế
Cuộc Đại suy thoái đã dẫn đến sự bần cùng và đau khổ tột cùng của hàng chục triệu người Mỹ, làm thay đổi đáng kể tâm lý, thế giới quan và đánh giá lại những chuẩn mực đạo đức của họ. Điều này được thể hiện qua sự so sánh sau:
“Mọi người sẽ nói về ‘trước năm 1929’ và ‘sau năm 1929’, giống như những đứa con của Nô-ê, có lẽ đã nói về thời điểm trước và sau trận Đại hồng thủy”.
Quy mô của cuộc khủng hoảng được chứng minh bằng số liệu sau: GNP của Mỹ giai đoạn 1929-1933 giảm 1,85 lần từ 104,6 xuống 57,2 tỷ USD, khối lượng đầu tư giảm 85%.
Thu nhập bình quân đầu người giảm 45%, từ 847 USD xuống còn 465 USD. Tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, tăng từ 3% lên 25%. Vào tháng 3 năm 1933, số người thất nghiệp khoảng 17 triệu. Khoảng 2,5 triệu người bị mất nhà cửa. Hơn 110.000 công ty phá sản.
Sản lượng sản xuất ô tô giảm 80%, sản xuất thép giảm 76%, sản xuất thép cán giảm 74% và khai thác than giảm 42%. Khối lượng sản xuất của ngành luyện kim đạt mức năm 1900.
Thiệt hại lớn nhất là ở lĩnh vực nông nghiệp – sản lượng lúa mì giảm 36%, ngô giảm 45%, giá ngũ cốc giảm khoảng 2,7 lần, bông – hơn 3 lần. Giá bất động sản giảm mạnh.
Bất động sản trang trại đã giảm giá trị nhiều lần – một trang trại trị giá khoảng 100.000 đô la vào năm 1929 đã lâm vào cảnh nợ nần. Sự phá sản lớn của những người nông dân không có khả năng trả nợ bắt đầu: Khoảng 1 triệu trang trại bị phá sản. Do nhu cầu giảm, giảm phát bắt đầu – chỉ số giá chung trong giai đoạn 1929-1933 giảm khoảng 25%. Mức lương bị giảm hơn 30%.
Dưới đây là các chỉ số kinh tế chính của Hoa Kỳ (theo bea.gov và dữ liệu từ M. Friedman và A. Schwartz)
Năm | GDP, tỷ USD | Cung tiền (M2), tỷ USD | Mức giá (CPI), (1929 – 100%) |
1929 | 103,6 | 46,60 | 100,00 |
1930 | 91,2 | 45,73 | 97,41 |
1931 | 76,5 | 42,69 | 88,68 |
1932 | 58,7 | 36,05 | 79,67 |
1933 | 56,4 | 32,55 | 75,44 |
Do mất khả năng thanh toán, nhiều nông dân mất đất và quyền sở hữu nhà, nhiều người Mỹ phải sống ở ngoại ô thành phố – trong các khu ổ chuột được xây dựng từ container và rác thải, được đặt tên một cách châm biếm là “canvilles” (“làng Hoover”).
Những người có cơ sở kinh doanh tìm thấy mình trên sàn giao dịch lao động, mọi người đều chộp lấy bất kỳ công việc nào, thậm chí là tầm thường, và xếp hàng dài trong các thành phố để nhận súp miễn phí.
Người dân Mỹ bắt đầu hiểu rằng, những lý tưởng trước đây về một nền kinh tế “tự do” đã không còn hiệu quả trong thời kỳ khủng hoảng – nhiều người thành công trước đây đã không thể thay đổi bất cứ điều gì, họ mất hy vọng và nhiều người đã bỏ cuộc.
Tình trạng sống lang thang và vô gia cư trở nên phổ biến, và các thành phố bị bỏ hoang bắt đầu xuất hiện. Nước Mỹ đang chuyển sang cánh tả, các cuộc biểu tình ngày càng mở rộng.
Do sự sụp đổ của nền kinh tế Mỹ, Đảng Cộng hòa đã mất quyền lực trong một thời gian dài – F. D. Roosevelt được bầu 4 lần liên tiếp, và sau ông là đảng viên Đảng Dân chủ Truman cũng trở thành tổng thống.
Do kinh tế thế giới được kết nối mạnh mẽ, theo sau Hoa Kỳ, toàn bộ nền kinh tế thế giới rơi vào vực thẳm của cuộc Đại suy thoái.
Bây giờ, Liên Xô thường bị nước ngoài khiển trách vì nạn Holodomor, vì những ‘bất hạnh của cách mạng’. Nhưng Hoa Kỳ cũng có điều tương tự, nhưng không có nội chiến và đàn áp quy mô lớn.
Thiếu tiền gây ra sụp đổ kinh tế như thế nào
Nền kinh tế và hệ thống tài chính phải được cứu thông qua việc bơm tiền vào nền kinh tế, nhưng chính phủ Mỹ và Cục dự trữ liên bang (Fed) do dự, và cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng.
Trong suốt năm 1930, từ tháng 2 đến tháng 6, Fed liên tục hạ lãi suất từ 4% xuống 2,5%, nhưng những biện pháp này không thể ngăn chặn được cuộc khủng hoảng. Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng Mỹ khiến nguồn cung tiền bị thu hẹp.
Nếu năm 1929 khối lượng cung tiền M2 là 46,6 tỷ đô la thì năm 1930 là 45,73 tỷ đô la, năm 1931 – 42,69 tỷ đô la. Nhưng vào năm 1932, khối lượng cung tiền M2 đã giảm xuống còn 36,05 (15,5%), vào năm 1933, M2 đạt giá trị 32,22 tỷ đô la, giảm 10,6%. Trong giai đoạn 1929–1933, cung tiền giảm 30%.
Nguồn cung tiền giảm ảnh hưởng đến tổng cầu, giảm phát bắt đầu, bề ngoài giống như một cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, hàng hóa chất đống trên kệ nhưng không tìm được người mua.
Chính động lực này đã làm cơ sở cho chẩn đoán của M. Friedman, Ben Bernanke và một số chính trị gia, nhà nghiên cứu đã cáo buộc Fed thiếu hiệu quả trong việc giải quyết khủng hoảng, cũng như nhiều thuyết âm mưu thú vị khác nhau về thảm kịch.
Hệ thống ngân hàng có đặc tính mở rộng cung tiền bằng cách tạo ra tiền, thông qua phép nhân tiền, đơn giản hóa: Ngân hàng phát hành khoản vay, một phần tiền chuyển qua khách hàng sang ngân hàng tiếp theo, ngân hàng này cũng nhận tiền để phát hành khoản vay, … Một chỉ báo đặc trưng cho “mở rộng tiền tệ” – hay hệ số vòng quay tiền (số nhân tiền).
Nhưng khi khách hàng ‘lấy’ tiền, quy trình lại diễn ra theo hướng ngược lại. Tác động tương tự làm giảm khối lượng đầu tư và cho vay, khi ngân hàng ngại cho vay, khách hàng ngại đầu tư kinh doanh do ‘đánh giá rủi ro’ gia tăng, mong đợi tình hình sẽ xấu đi.
Cung tiền giảm làm giảm nhu cầu, từ đó làm giảm nhu cầu cho vay, một quá trình phức tạp nảy sinh dẫn đến giảm phát và khủng hoảng nợ.
Trước hết, trong thời kỳ khủng hoảng, thị trường liên ngân hàng trì trệ, bị ảnh hưởng bởi “khủng hoảng niềm tin” và sự mất giá của các công cụ thế chấp. Hiệu ứng domino sau đó tạo ra phản ứng dây chuyền về việc không thanh toán trong toàn bộ nền kinh tế.
Trong công trình của mình, Sergei Blinov ước tính rằng, số nhân tiền ở Hoa Kỳ đã giảm 46% trong thời kỳ Đại suy thoái từ 6,6 xuống 3,5. Nếu Fed bơm thanh khoản cần thiết vào hệ thống ngân hàng và nhanh chóng thông qua luật bảo hiểm tiền gửi, hậu quả của cuộc khủng hoảng sẽ được giảm thiểu rất nhiều, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao.
Năm 2002, Ben Bernanke, khi đó là thành viên của Cục dự trữ liên bang (Fed), đã công khai thừa nhận điều mà các nhà kinh tế đã tin tưởng từ lâu. Những sai lầm của Fed đã góp phần vào ‘thảm họa kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ’.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 2002, trong bài phát biểu tại một hội nghị vinh danh Milton Friedman … nhân dịp sinh nhật lần thứ 90 của ông:
“Tôi muốn nói với Milton và Anne: Về cuộc Đại suy thoái. Bạn nói đúng, chúng tôi đã làm được. Chúng tôi vô cùng xin lỗi. Nhưng nhờ có bạn, chúng tôi sẽ không làm điều đó nữa”.
Cuộc Đại suy thoái: Những tính toán sai lầm của Fed và bản vị Vàng
Nhiều người đã từng thắc mắc Fed đã đưa nước Mỹ đến cuộc Đại suy thoái như thế nào?
Như M. Friedman, người sáng lập lý thuyết về chủ nghĩa tiền tệ và chủ nghĩa tự do mới, đã phát biểu:
“Cuộc Đại suy thoái là một tính toán sai lầm của chính phủ và chính sách tiền tệ. Đây là sự thất bại của Hệ thống dự trữ liên bang trong việc thực hiện công việc mà nó được tạo ra … mặc dù thực tế là nhiều người trong hệ thống biết chính xác những gì cần phải làm …”.
“Những người từ Cục dự trữ liên bang New York và các ngân hàng khác liên tục kêu gọi Hội đồng thống đốc Fed can thiệp và làm những gì cần phải làm. Tại Quốc hội, có người liên tục đòi thay đổi lộ trình của Fed. Các nhà bình luận bên ngoài … cũng đã chỉ ra rằng các chính sách hạn chế của Fed đang có tác động bất lợi đến nền kinh tế Mỹ …”.
Nhiều nhà kinh tế, chính trị gia và doanh nhân hiện đại ngày nay cũng chỉ trích Ngân hàng Nga, cho rằng trên thực tế, ngân hàng này cũng mắc phải những sai lầm tương tự. Nhưng đây là một chủ đề riêng biệt.
Ben Bernanke, với tư cách là chủ tịch Cục dự trữ liên bang, đã chỉ ra:
“… bản vị vàng là một trong những lý do chính khiến cuộc Đại suy thoái diễn ra sâu sắc và kéo dài … Lý do là vì tất cả tiền đều phải được đảm bảo bằng vàng nên các ngân hàng trung ương đơn giản là không có thời gian để sản xuất số lượng vàng cần thiết, nếu nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng. Kết quả là giá cả giảm và nền kinh tế suy thoái”.
Trong bài báo ‘Tiền, vàng và cuộc đại suy thoái’, Bernanke thảo luận về nguyên nhân của cuộc Đại suy thoái và tuyên bố rằng vào tháng 9 năm 1931, sau một thời kỳ hỗn loạn tài chính ở Châu Âu, các nhà đầu cơ đã tấn công đồng bảng Anh, đưa bảng Anh cho Ngân hàng Anh để đổi lấy vàng, dẫn tới sự cạn kiệt nguồn dự trữ vàng. Vương quốc Anh từ bỏ tỷ giá cố định, cho phép đồng bảng Anh được thả nổi tự do.
Sau đó, dự trữ vàng của Fed cạn kiệt khi các ngân hàng trung ương và các nhà đầu tư tư nhân chuyển một lượng lớn tài sản bằng đô la thành vàng vào tháng 9 và tháng 10 năm 1931. Việc rút tiền của người gửi tiền trong và ngoài nước khỏi hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ cũng góp phần khiến tiền tệ bị thu hẹp.
Mô tả tình hình sau Thế chiến thứ nhất, trước cuộc Đại suy thoái, Z. Moshensky viết:
“Căng thẳng trên thị trường tài chính cũng gia tăng, do giá trị dự trữ ngân hàng liên quan đến nợ phải trả giảm đáng kể ở tất cả các quốc gia: Từ 10 xuống 7% ở Anh, từ 20 xuống 12% ở Pháp và từ 20 xuống 12% ở Mỹ. Sự suy giảm đặc biệt đáng chú ý ở Đức – từ 39% xuống 4%”.
Điều này dẫn đến xu hướng giảm phát ổn định, những năm sau chiến tranh ngày càng cản trở sự phát triển của thị trường tài chính và chứng khoán ở các nước Châu Âu. ‘Hệ tư tưởng’ giảm phát, sinh ra từ nỗ lực tuyệt vọng nhằm bám vào bản vị vàng, là phương thuốc tồi tệ nhất có thể có đối với nền kinh tế thế giới”.
“Điểm yếu của hệ thống bản vị vàng là sự mất cân bằng ngày càng tăng giữa các quốc gia có trữ lượng vàng khác nhau vì những lý do khách quan. Cơ chế điều tiết đối với các quốc gia có thâm hụt ngày càng tăng không phải là phá giá mà là giảm phát”.
Là nhà kinh tế vĩ đại nhất mọi thời đại, J. M. Keynes, đã tin rằng:
“… bản vị vàng chỉ là một di tích man rợ của quá khứ”.
Ông suy nghĩ tiêu cực về ý tưởng bản vị vàng, vì nguồn cung vàng chính là ở Hoa Kỳ:
“Sẽ là vô trách nhiệm, trong điều kiện hiện tại, nếu để quyền tự do thương mại của chúng ta cho Cục dự trữ liên bang hoa Kỳ quyết định”.
Nhưng đây chính xác là phương án hiện đã được triển khai trên thế giới.
Theo Bernanke, những quốc gia bỏ chế độ bản vị vàng sớm hơn đáng lẽ phải tránh được trường hợp xấu nhất của cuộc Đại suy thoái và bắt đầu quá trình phục hồi sớm hơn.
Do đó, Vương quốc Anh và các nước Scandinavi, những quốc gia đã rời bỏ chế độ bản vị vàng vào năm 1931, đã phục hồi sớm hơn nhiều so với Pháp và Bỉ, những quốc gia kiên quyết tuân thủ chế độ bản vị vàng. Những quốc gia như Trung Quốc sử dụng ‘bản vị bạc’ thay vì bản vị vàng gần như đã tránh được cuộc suy thoái hoàn toàn.
Khủng hoảng: Ai thắng ai thua
Trong thời kỳ khủng hoảng, người chiến thắng là những người chơi có kinh nghiệm và hiểu biết nhất, họ bán tài sản của mình trước và thu được tiền. Những nhà đầu tư không tìm cách thoát khỏi cổ phiếu trước cuộc khủng hoảng và những nhà đầu tư cố gắng bắt đầu các dự án mới được thực hiện thông qua các khoản vay sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng nhất.
Hoàn cảnh của tất cả người đi vay đều khó khăn. Cuộc khủng hoảng năm 1929 là giảm phát và kéo dài – nền kinh tế chỉ phục hồi vào năm 1940. Giảm phát khiến giá trị đồng tiền tăng mạnh.
Bất kỳ cuộc khủng hoảng nào cũng tạo ra một cơ chế phân phối lại tài sản, giải phóng nền kinh tế không chỉ khỏi những chủ sở hữu kém hiệu quả – mà còn góp phần vào sự độc quyền của nó. Những người sở hữu thanh khoản may mắn sau khủng hoảng có thể mua lại tài sản ở mức giá thấp hơn nhiều (đôi khi vài lần).
Trong thời kỳ Đại suy thoái, một số lượng lớn công dân Hoa Kỳ không chỉ bị tước đoạt tiền tiết kiệm, thua lỗ trên thị trường chứng khoán mà còn cả tài sản của họ, hóa ra đây là một kiểu chiếm đoạt. Đồng thời, các tập đoàn lớn và các chủ đất càng củng cố thêm vị thế của mình trong nền kinh tế.
Trên thị trường chứng khoán, luôn có sự phân phối lại tiền tiết kiệm từ những nhà đầu tư thụ động, ít thông tin hơn sang những người chơi có thông tin tốt nhất. Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng bình thường, khi dòng tiền vào vượt quá dòng tiền ra, họ cũng được hưởng lợi.
Nhưng trong giai đoạn đầu và sơ bộ của cuộc khủng hoảng, khi ‘dòng vốn đến’ cạn kiệt, sẽ có một dòng tiền tiết kiệm (hoặc đóng băng trong thời gian dài) của các nhà đầu tư đang cố gắng giành lấy sự gia tăng có lợi cho “những con gấu”.
Đó là lý do tại sao, với bất kỳ vấn đề nghiêm trọng nào trên thị trường tài chính, các nhà đầu tư đều hoảng sợ và bán chứng khoán.
Lời kết
Cuộc Đại suy thoái đã cho thấy một trong những bí mật chính của quản lý kinh tế, tầm quan trọng của lực lượng chính của nó – tiền bạc. Như Mayer Rothschild đã nói (1809):
“Hãy để tôi quản lý tiền của đất nước và tôi không quan tâm ai là người đưa ra luật ở đó”.
Không có tiền – không có kinh tế. Và chính bí mật này mà giới tinh hoa theo chủ nghĩa toàn cầu hóa hiện nay sử dụng để làm suy yếu nước Nga ngày nay, bằng cách kiểm soát đối tượng then chốt của nền kinh tế Nga – Ngân hàng Nga.
Các nhà nghiên cứu về nguyên nhân của cuộc Đại suy thoái đã nêu ra nhiều nguyên nhân – sai sót trong chính sách tiền tệ của Cục dự trữ liên bang (M. Friedman), sự sụp đổ của thị trường chứng khoán (J. K. Galbraith), bản vị vàng (B. Bernanke), chính sách của Ngân hàng trung ương Anh (M. Rothbard).
Nhưng nguyên nhân ban đầu của cuộc Đại suy thoái những năm 1930 là do không thể duy trì trong thời gian dài tỷ lệ đầu tư do sự bùng nổ của những năm 20 gây ra, như L. Mises đã cảnh báo.
Suy thoái thế giới những năm đó có nghĩa là Karl Marx đã đúng, khi dự đoán sự sụp đổ của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Nhiều người nhìn vào Liên Xô với hy vọng, nhưng nước này cũng có những khuyết điểm.
Suy thoái ảnh hưởng đến các nước tư bản chủ chốt, nhưng cùng lúc đó, nước Nga Xô Viết, theo đuổi công nghiệp hóa, đã cho thấy sự tăng trưởng kinh tế kỳ diệu, khi tốc độ tăng trưởng trung bình trong thập niên 1930 là 15,74% (Phát triển nền kinh tế Nga trong hơn 100 năm, 1900–2000, V. M. Simchera, 2007).
Một kỷ nguyên mới đang hé mở, chủ nghĩa tư bản cần được khởi động lại. Và nhà kinh tế vĩ đại người Anh J.M. Keynes đã lên tiếng về những công thức này. Nhưng đó là chuyện sau này.
Còn tiếp …
Tài liệu được sử dụng:
Từ sự mất cân bằng toàn cầu đến “Đại suy thoái” (1914–1939), Z. S. Moshchensky, London Xlibris 2014, trang 34.
Keynes J. Chuyên luận về cải cách tiền tệ. Tư tưởng kinh tế, 1925, trang 93, 95.
Galin Vasily “Kinh tế chính trị của chiến tranh”, Moscow, Algorithm, 2007, tr. 343.
Timoshina T. M., “Lịch sử kinh tế của các nước ngoài”, Justitsinform, Moscow, 2003, trang 387.