Nhà Đường sau khi cai trị Giao Châu đã đổi tên thành An Nam và người đứng đầu cai trị gọi là “kinh lược sứ”. Trước năm 710, có sự phân biệt giữa các chức quan “tiết độ sứ” và “kinh lược sứ”. Tiết độ sứ thường đứng đầu các “vùng đất nội”, còn kinh lược sứ thường là người đứng đầu các “vùng đất ngoại biên (biên giới)”.
Sau 710, vì lý do an ninh, nhà Đường bổ nhiệm chức tiết độ sứ cho người cai quản cả những vùng đất ngoại. Chức vụ tiết độ sứ thời nhà Đường thường cai quản cả về quân sự, hành chính, kinh tế và chính trị. Chức vụ này được kế thừa theo hình thức cha truyền con nối. Có thể nói rằng, chức tiết độ sứ vào cuối đời nhà Đường dần trở thành lãnh chúa cai quản một phương.
Đến gần cuối thời Đường, từ năm 846 đến 866, quân nước Nam Chiếu (của tộc người người Bạch, người Di và người Miêu) đã nhiều lần mang quân sang cướp phá An Nam (đô hộ phủ). Từ năm 863 đến 866, An Nam bị quân Nam Chiếu chiếm đóng.
Năm 866, Đường Ý Tông cử Cao Biền dẫn quân chinh phạt quân Nam Chiếu. Sau khi lấy lại An Nam từ sự chiếm đóng của quân Nam Chiếu, Cao Biền dâng sớ xin đổi An Nam thành Tĩnh Hải Quân. Như vậy, An Nam [đô hộ phủ] lúc này tương đương với các “Quân” – như một đơn vị hành chính tại vùng nội của nhà Đường. Vua Đường Ý Tông sắc phong Cao Biền làm tiết độ sứ Tĩnh Hải Quân [An Nam].
Theo lịch sử Trung Hoa, triều đại nào cũng vậy, những giai đoạn đầu thường khá phát triển và ổn định. Nhưng đến những đời sau thường là suy yếu vì nhiều lý do khác nhau. Sự suy thoái thường đi kèm với bất ổn chính trị và xã hội.
“Cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào” do Hoàng Sào thực hiện xảy ra từ 874 đến 884, mặc dù là thất bại, nhưng nó góp phần làm nhà Đường suy yếu và diệt vong trong khoảng 23 năm sau đó. Nhà Đường chính thức sụp đổ vào năm 907.
Khoảng 2 năm trước khi sụp đổ, tức năm 905, Chu Ôn âm mưu đày tiết độ sứ Tĩnh Hải Quân là Độc Cô Tổn ra đảo Hải Nam, rồi giết chết.
Trong thời gian này, triều đình nhà Đường vô cùng bất ổn. Trên thực tế, triều đình gần như mất quyền lực. Các lãnh chúa nổi dậy cát cứ các địa phương khác nhau và thường không tuân phục triều đình.
Tại Tĩnh Hải Quân, nhân cơ hội, nhà Đường chưa cử tiết độ sứ mới sau cái chết của Độc Cô Tổn, năm 906, Khúc Thừa Dụ đứng đầu một gia tộc giàu có (hào tộc) của Tĩnh Hải Quân đã nổi dậy chiếm lấy phủ Đại La của Tĩnh Hải Quân và tự xưng là tiết độ sứ. Nhà Đường lúc này đã suy yếu nên đành chấp nhận Khúc Thừa Thụ. Một năm sau, tức năm 907, nhà Đường chính thức diệt vong.
Khúc Thừa Dụ – Người Đặt Nền Tảng Cho Sự Độc Lập
Khúc Thừa Dụ là người ở Hồng Châu (hiện nay là một phần của tỉnh Hải Dương) và thuộc về một gia tộc nhiều đời giàu có. Ông là người có tính tình hòa ái, thân thiện và hào phóng, nên được người dân kính trọng. Có thể nói, Khúc Thừa Dụ là tiết độ xứ đầu tiên của người bản xứ An Nam (người Việt).
Sau khi nắm quyền, Khúc Thừa Dụ chỉ định người con của mình là Khúc Hạo nắm quyền chỉ huy quân đội và đặt phủ tại La Thành (quận Ba Đình, Hà Nội hiện nay).
Ngày 23 tháng 07 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay cha giữ chức tiết độ sứ (kế vị).
Khúc Thừa Dụ mặc dù nắm quyền cai trị tại Tĩnh Hải Quân (tức An Nam), nhưng ông đã không xưng đế hay xưng vương. Điều này có nghĩa, trên danh nghĩa, Tĩnh Hải Quân (An Nam) vẫn thuộc về nhà Đường. Nhưng thực tế, người An Nam về cơ bản đã tự chủ và không còn lệ thuộc vào nhà Đường.
Xét về công trạng, Khúc Thừa Dụ là người đặt nền móng cho sự độc lập của nước ta sau này.
Sau khi kế vị, Khúc Hạo đã thực hiện chính sách ngoại giao rất linh hoạt với nhà hậu Lương (907-923) và nhà Nam Hán (907-971)[1].
Mặc dù về danh nghĩa là kế thừa nhà Đường, nhưng nhà hậu Lương chỉ nắm quyền kiểm soát một phần lãnh thổ trung nguyên. Các lãnh chúa nhiều vùng đất khác đã tự xưng vương, xưng đế. Như vậy, tại Trung Hoa, lúc này, có nhiều tiểu vương quốc (nước nhỏ) hình thành.
Do vị trí địa lý gần với nước Nam Hán (907-971), Khúc Hạo đã thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng, linh hoạt và mềm dẻo với cả nhà hậu Lương và Nam Hán. Vì biết rằng, nếu gây hấn sẽ ảnh hưởng đến an ninh của Tĩnh Hải Quân.
Nhà Đường sụp đổ, thì, nhà hậu Lương (907-923) tiếp nối. Năm 908, vì muốn lấy lại Tĩnh Hải Quân, Chu Ôn (Lương Thái Tổ) sắc phong Lưu Ẩn đang là tiết độ sứ của “Thanh Hải Quân” (hiện nay là tỉnh Quảng Châu, Quảng Đông và đảo Hải Nam) kiêm tiết độ sứ của Tĩnh Hải Quân.
Về mặt danh nghĩa, nhà hậu Lương thay nhà Đường, thì, Thanh Hải Quân vẫn là vùng đất thuộc về nhà hậu Lương. Nhưng trên thực tế, Lưu Ẩn lúc đó là lãnh chúa một vùng. Triều đình nhà hậu Lương không còn kiểm soát vùng đất này được nữa.
Đó cũng chính là lý do, Chu Ôn đã sắc phong cho Lưu Ẩn, lúc đó đang là tiết độ sức Thanh Hải Quân kiêm thêm chức tiết độ sứ Tĩnh Hải Quân. Mặc dù, Tĩnh Hải Quân thực tế là do nhà họ Khúc – một người bản xứ cai quản.
KHÚC THỪA MỸ Thay Đổi Chính Sách Ngoại Giao: Dẫn Đến Chiến Tranh Với Nhà Nam Hán
Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Khúc Thừa Mỹ đã thay đổi chính sách của cha (tức Khúc Hạo) từ trung lập sang đứng về phía nhà hậu Lương. Năm 919, Khúc Thừa Mỹ sai sứ giả sang nhà Lương để nhận thụ phong chức tiết độ sứ. Điều này chắc chắn sẽ làm cho nhà Nam Hán không hài lòng, hơn nữa là giận dữ.
Có thể đây là một trong những lý do, nhà Nam Hán mang quân sang xâm lược Tĩnh Hải Quân (An Nam) vào năm 930. Một lý do quan trọng khác, nhà Nam Hán cũng có thể có tham vọng mở rộng lãnh thổ cai trị và gia tăng sức mạnh về quân sự và kinh tế, lớn hơn nữa là thống nhất trung nguyên.
Sau khi nhà Đường diệt vong, Lưu Ẩn (tiết độ sứ Thanh Hải Quân) không xưng vương hay xưng đế. Mãi cho đến khoảng 10 năm sau, tức năm 917, Lưu Nham (con của Lưu Ẩn) mới xưng đế và chính thức thành lập nước Nam Hán. Bởi Lưu Nham mang họ Lưu, thuộc dòng dõi nhà Hán và Thanh Hải Quân ở phương nam, đó có thể là lý do, ông ta đặt tên nước là Nam Hán (hiện nay là tỉnh Quảng Châu, Quảng Tây và đảo Hải Nam thuộc Trung Hoa).
Một điều quan trọng, nhà Đường diệt vong, lịch sử Trung Hoa bước sang thời kỳ cực kỳ hỗn loạn. Các nhà sử học gọi thời kỳ này là “Ngũ Đại – Thập Quốc”. Sự sụp đổ của nhà Đường thì sự thống nhất không còn nữa. Các lãnh chúa, tức người đứng đầu các “Phiên Trấn hoặc Quân”- đứng đầu cai quản các vùng đất thuộc Trung Hoa đã đứng lên lập quốc, xưng vương, xưng đế.
Về phương diện lịch sử, mỗi khi một triều đại nào đó bên Trung Hoa sụp đổ, nhiều tiểu quốc sẽ được hình thành, thì, miền bắc nước ta mới có cơ hội được độc lập. Mặc dù rằng, trong suốt quá trình cai trị của các triều đại Trung Hoa, người Việt luôn nổi dậy đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Nhưng đáng tiếc là đều thất bại.
Năm 930, trong thời Ngũ Đại, triều đình ở trung nguyên phải đối phó với các tiểu quốc vùng biên viễn (biên giới) phương Bắc. Lợi dụng thời cơ, nhà Nam Hán muốn bành trướng lãnh thổ và tiến xa hơn về phương Nam.
Năm 930, vua Nam Hán tên là Lưu Nghiễm sai Lý Thủ Dũng và Lý Khắc Trinh dẫn quân đánh Tĩnh Hải Quân (An Nam – miền bắc nước ta thời đó). Khúc Thừa Mỹ bị bắt sống và mang về Phiên Ngung.
Mặc dù trên danh nghĩa Tĩnh Hải Quân thuộc nhà hậu Lương (Khúc Thừa Mỹ được thụ phong tiết độ sứ của nhà hậu Lương), nhưng lúc này nhà hậu Lương cũng đang suy yếu, nên không thể mang quân sang giúp Khúc Thừa Mỹ.
Điều này cho thấy, Khúc Thừa Mỹ đã có sự nhận định chưa chính xác về thời cuộc. Nhà Nam Hán ở ngay bên cạnh Tĩnh Hải Quân (An Nam), trong khi nhà hậu Lương ở tận trung nguyên. Nước xa không thể cứu lửa gần. Hơn nữa, nhà hậu Lương lúc đó đang suy yếu thì làm sao mang quân sang giúp?
Ngoài ra, việc dựa vào một thế lực nào đó để chống lại một thế lực khác là chính sách ngoại giao thật sự chưa THỰC SỰ KHÔN NGOAN. Không may, Khúc Thừa Mỹ đã mắc phải sai lầm này.
Đúng như vậy, Khúc Thừa Mỹ đã gọi nhà Nam Hán là “ngụy đình”, tức là triều đình không chính danh. Làm sao nhà Nam Hán lại có thể chấp nhận được! Bởi vì chính sách ngoại giao gây hấn của mình, Khúc Thừa Mỹ đã thất bại và bị tiến đánh.
Năm 930, Tĩnh Hải Quân bị quân Nam Hán chiếm giữ, vua Nam Hán cử Lý Tiến làm “thứ sử Giao Châu”. Lưu ý là, tên gọi về chức quan của nhà Nam Hán có thể khác với nhà Đường trước đó. Nam Hán có thể đã áp dụng lại mô hình của nhà Hán trước đây. Nam Hán gọi Tĩnh Hải Quân (An Nam) là Giao Châu.
Mặc dù chiếm được Tĩnh Hãi Quân nhưng Nam Hán lại không giữ được. Năm 931, Dương Đình Nghệ dấy binh đánh bại Lý Khắc Chính – tướng chỉ huy của nhà Nam Hán tại Tĩnh Hải Quân và đánh đuổi thứ sử Lý Tiến chạy về nước.
Trước tình thế này, vua Nam Hán sai tướng Trần Bảo sang ứng cứu. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo tài tình, Dương Đình Nghệ đã đánh bại quân tiếp viện và giết chết Trần Bảo.
Sau đó, Dương Đình Nghệ tự xưng là tiết độ sứ của Tĩnh Hải Quân (An Nam hay Giao Châu – miền bắc nước ta thời đó).
Đến năm 937, Dương Đình Nghệ bị viên tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết, rồi lên thay. Năm 938, con rễ của Dương Đình Nghệ đang là tướng trấn thủ Ái Châu muốn tiêu diệt kẻ phản bội Kiều Công Tiễn. Ông đã tập hợp được lực lượng và kêu gọi các hào trưởng, các vị tướng trấn giữ tại các địa phương như Đinh Công Trứ, Dương Tam Kha, Kiều Công Hãn, mang quân đánh Kiều Công Tiễn.
Đang ở thế bị cô lập và không được ai ủng hộ, trước tình thế như vậy, Kiều Công Tiễn chạy sang cầu viện vua Nam Hán. Đáp ứng cầu viện, năm 938, vua Nam Hán khi đó là Lưu Nghiễm (Lưu Cung) sai con trai của mình là Lưu Hoằng Tháo dẫn binh sang chinh phạt Tĩnh Hải Quân.
NGÔ QUYỀN: TRẬN CHIẾN BẠCH ĐẰNG QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Về mặt kinh nghiệm chiến trận, Hoằng Tháo khó có thể so sánh với Ngô Quyền. Hoằng Tháo khi đó tầm 18 tuổi hoặc hơn một chút, chưa có kinh nghiệm trận mạc. Trong khi Ngô Quyền khoảng 40 tuổi, trải qua nhiều chiến trận. Có thể nói, Hoằng Tháo là một đứa trẻ so với Ngô Quyền.
Tại sao Lưu Nghiễm lại giao binh quyền vào tay Hoằng Tháo? Phải chăng ông muốn rèn luyện cho con trai?
Ngô Quyền đã sử dụng kế sách giả thua để làm quân địch mắc bẫy. Đúng như tiên đoán, sau vài trận giao tranh, Ngô Quyền giả vờ thua trận để dụ địch đuổi theo đến điểm phục kích. Chiến thuyền của Hoằng Tháo lọt vào trận địa đã được cắm cọc. Phần lớn chiến thuyền bị đắm, mắc kẹt. Số quân địch chết la liệt. Hoằng Tháo thua trận và bị bắt, rồi bị giết. Trận chiến này đã được ghi vào sử sách là trận Bạch Đằng. Vì nơi giao chiến là thuộc về sông Bạch Đằng (hiện nay thuộc về Quảng Ninh và Hải Phòng).
Sau cái chết của Hoằng Tháo, Lưu Nghiễm đã từ bỏ ý định xâm chiếm Tĩnh Hải Quân.
Nói về số phận của nhà Nam Hán, sau khi Lưu Nghiễm chết, các con và cháu của ông đã thay nhau tranh giành quyền lực và chém giết lẫn nhau. Đó cũng là bi kịch của quyền lực.
Trận Bạch Đằng đã đặt dấu mốc cho sự chấm dứt hơn 1000 năm bắc thuộc tính từ năm 111 trước tây lịch cho đến 938. Năm 939, Ngô Quyền chính thức lên ngôi vua và đóng đô ở thành Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội).
Triều đại nhà Ngô (nước Việt) kéo dài từ 939 đến 965 thì xảy ra loạn 12 xứ quân.
[1] Chính thức lập quốc và xưng đế vào năm 917.