Ngày nay, khi người Israel và Palestine thương tiếc những người đã thiệt mạng và hồi hộp chờ đợi tin tức về những người mất tích, nhu cầu tìm kiếm người để đổ lỗi mạnh mẽ ở cả 2 bên.
Người Israel và những người ủng hộ họ muốn đổ mọi trách nhiệm lên Hamas – tổ chức chắc chắn chịu trách nhiệm trực tiếp về các cuộc tấn công kinh hoàng nhằm vào dân thường Israel.
Những người thông cảm hơn với cuộc đấu tranh của người Palestine coi thảm kịch này là kết quả tất yếu của nhiều năm chiếm đóng và cách đối xử tàn bạo của Israel đối với người dân Palestine.
Những người khác nhấn mạnh rằng, có rất nhiều người đáng trách, và những người coi một bên hoàn toàn vô tội và bên kia chịu trách nhiệm về mọi chuyện đã xảy ra, rõ ràng, đã mất khả năng suy luận khách quan và vô tư.
Nhưng trong cuộc tranh luận sôi nổi xem ai là người có lỗi nhiều hơn, chúng ta chắc chắn quên mất những lý do quan trọng khác – có mối liên hệ ‘gián tiếp và rất yếu’ với cuộc xung đột lâu dài giữa những người theo chủ nghĩa Do Thái của Israel và người Ả Rập Palestine.
Nguyên nhân gốc rễ này là gì? Nó đang gây nhiều tranh cãi!
Trong cuốn sách “Nhà nước Do Thái” năm 1896 của Theodor Herzl? Trong Tuyên bố Balfour năm 1917? Trong cuộc nổi dậy Ả Rập năm 1936? Trong kế hoạch năm 1947 của Liên hợp quốc về việc phân chia Palestine? Trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1947 hay trong Chiến tranh 6 ngày năm 1967?
Tôi sẽ bắt đầu vào năm 1991, khi Hoa Kỳ trở thành cường quốc thống trị ‘không thể thách thức’ ở Trung Đông và bắt đầu tạo ra một trật tự khu vực phục vụ lợi ích của Mỹ.
Trong bối cảnh mở rộng này, có ít nhất 5 tình tiết hoặc yếu tố chính sẽ dẫn chúng ta đến những sự kiện bi thảm trong xung đột Israel – Hamas (Palestine) vừa qua.
Thời điểm đầu tiên là Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và hậu quả của nó là Hội nghị Hòa bình Madrid. Cuộc chiến là một màn trình diễn ấn tượng về sức mạnh quân sự và kỹ năng ngoại giao của Mỹ, nhằm đánh bại mối đe dọa mà Saddam Hussein đặt ra đối với cán cân quyền lực trong khu vực.
Liên Xô gần như sụp đổ và Hoa Kỳ nắm chắc quyền lãnh đạo. Tổng thống khi đó là George H. W. Bush, Ngoại trưởng James Baker và một nhóm chuyên gia Trung Đông giàu kinh nghiệm đã nắm lấy cơ hội và triệu tập một hội nghị hòa bình vào tháng 10 năm 1991 với các đại diện từ Israel, Syria, Lebanon, Ai Cập, Cộng đồng kinh tế Châu Âu và Jordan – Phái đoàn Palestine.
Hội nghị này không mang lại kết quả rõ ràng và chắc chắn không cho phép ký kết một thỏa thuận hòa bình cuối cùng. Nhưng nó đã đặt nền móng cho công việc nghiêm túc nhằm tạo ra một trật tự hòa bình trong khu vực.
Thật thú vị khi nghĩ về những gì có thể đạt được, nếu Bush tái đắc cử vào năm 1992 và nhóm của ông được phép tiếp tục công việc của mình.
Nhưng Hội nghị Madrid có một sai sót chết người và nó đã gieo mầm mống cho nhiều vấn đề trong tương lai.
Iran không được mời tham dự hội nghị và đáp lại bằng cách tổ chức một cuộc họp của các lực lượng không công nhận Israel và bắt đầu tiến gần hơn đến các nhóm Palestine mà trước đây họ đã phớt lờ, bao gồm cả Hamas và Thánh chiến Hồi giáo.
Như Trita Parsi lưu ý trong cuốn sách ‘Liên minh nguy hiểm’ của mình, “Iran tự coi là một cường quốc hàng đầu trong khu vực và mong muốn có một ghế tại bàn đàm phán”, bởi vì Hội nghị Madrid được xem “không chỉ là một sự kiện về xung đột Israel-Palestine mà còn là một thời điểm quyết định, trong việc hình thành một trật tự mới ở Trung Đông”.
Phản ứng của Iran đối với Hội nghị Madrid phần lớn mang tính chiến lược hơn là ý thức hệ: Iran tìm cách chứng minh cho Mỹ và các nước khác thấy rằng, họ có thể làm chệch hướng nỗ lực tạo ra một trật tự khu vực mới, nếu lợi ích của họ không được tính đến”.
Đó chính xác là những gì đã xảy ra. Các vụ đánh bom tự sát và bạo lực cực đoan khác đã làm gián đoạn các cuộc đàm phán của Hiệp định Oslo và Israel từ chối hỗ trợ một giải pháp thương lượng. Theo thời gian, quan hệ giữa Iran và phương tây ngày càng xấu đi, hòa bình trở nên khó nắm bắt và mối quan hệ giữa Hamas và Iran ngày càng bền chặt.
Thời điểm quan trọng thứ 2 là sự kết hợp định mệnh của các sự kiện: Vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 và cuộc xâm lược Iraq của Mỹ sau đó vào năm 2003.
Quyết định xâm lược Iraq chỉ liên quan trực tiếp đến xung đột Israel-Palestine, mặc dù những người theo chủ nghĩa Ba’athist ở Iraq ủng hộ cuộc đấu tranh của người Palestine theo nhiều cách khác nhau.
Chính quyền George W. Bush tin rằng, việc lật đổ Saddam và loại bỏ mối đe dọa vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq sẽ nhắc nhở kẻ thù của Mỹ về sức mạnh của họ, đóng vai trò như một đòn giáng mạnh vào chủ nghĩa khủng bố nói chung và tạo điều kiện cho sự thay đổi dân chủ triệt để trên khắp Trung Đông.
Mỹ đã nhận được một cuộc xung đột kéo dài ở Iraq và sự cải thiện đáng kể về vị thế chiến lược của Iran.
Xem thêm: 20 Năm Sau Chiến Tranh Iraq
Sự thay đổi cán cân quyền lực này đã cảnh báo Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh khác. Nhận thức về mối đe dọa từ Iran đã bắt đầu thay đổi đáng kể các mối quan hệ trong khu vực.
Ngoài ra, một số quốc gia Ả Rập đã xem xét lại mối quan hệ của họ với Israel. Nỗi lo sợ về sự thay đổi chế độ do Mỹ lãnh đạo cũng buộc Iran phải bí mật bắt đầu phát triển vũ khí hạt nhân. Họ bắt đầu mở rộng khả năng làm giàu uranium và điều này dẫn đến các lệnh trừng phạt cứng rắn hơn của Mỹ và Liên hợp quốc.
Thời điểm quan trọng thứ ba đến khi tổng thống Donald Trump đưa ra quyết định đen tối là từ bỏ Kế hoạch hành động toàn diện chung (JCPOA) và bắt đầu theo đuổi chính sách gây áp lực tối đa.
Quyết định ngu ngốc này đã gây ra nhiều hậu quả chết người. Việc rút khỏi JCPOA cho phép Iran tiếp tục chương trình hạt nhân và tiến gần hơn đến việc phát triển vũ khí hạt nhân.
Và chiến dịch gây áp lực tối đa đã khiến Iran tấn công các tàu chở dầu và các mục tiêu ở Vịnh Ba Tư và Saudi Arabia, cho Mỹ thấy rằng, những nỗ lực họ nhằm ép buộc Iran và lật đổ chế độ là rất rủi ro và tốn kém.
Iran bắt đầu tỏ ra quan tâm đến việc tạo ra cơ sở hạ tầng hạt nhân của riêng mình. Theo lý thuyết chủ nghĩa hiện thực, nhận thức về các mối đe dọa ngày càng tăng từ Iran đã thúc đẩy Israel và một số quốc gia vùng Vịnh tham gia hợp tác an ninh.
Sự kiện thứ tư được gọi là Hiệp định Abraham. Ở một mức độ nhất định, đây là hậu quả hợp lý của quyết định rút khỏi JCPOA của Trump.
Những thỏa thuận này là sản phẩm trí tuệ của chiến lược gia nghiệp dư (và con rể của Trump) Jared Kushner.
Đây là một loạt các thỏa thuận song phương nhằm bình thường hóa quan hệ giữa Israel và Maroc, Bahrain, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Sudan.
Các nhà phê bình lưu ý rằng, các thỏa thuận này hầu như không thúc đẩy hòa bình vì không quốc gia Ả Rập ký kết nào có thái độ thù địch tích cực với Israel hoặc có thể gây tổn hại cho nước này. Đã có những cảnh báo rằng, hòa bình trong khu vực vẫn khó nắm bắt cho đến khi số phận của 7 triệu người Palestine sống dưới sự cai trị của Israel được giải quyết.
Xem thêm – Xung Đột Israel – Palestine: Quá Khứ, Hiện Tại Và Tương Lai
Chính quyền Biden cũng đi theo con đường tương tự. Họ đã không thực hiện các bước đi có ý nghĩa để ngăn chặn chính phủ thiên hữu của Israel hỗ trợ các hoạt động bạo lực của những người định cư, dẫn đến số người chết ở Palestine và những người phải di tản tăng mạnh trong 2 năm qua.
Không thực hiện được lời hứa trong chiến dịch tranh cử là ngay lập tức tái gia nhập JCPOA, Biden đã tập trung nỗ lực chính vào việc thuyết phục Saudi Arabia bình thường hóa quan hệ với Israel để đổi lấy một số loại bảo đảm an ninh của Mỹ và có thể là quyền tiếp cận công nghệ hạt nhân.
Tuy nhiên, những nỗ lực này ít liên quan đến xung đột Israel-Palestine mà chủ yếu nhằm mục đích ngăn cản Saudi Arabia xích lại gần Trung Quốc. Liên kết các đảm bảo an ninh với bình thường hóa là một cách để vượt qua sự miễn cưỡng của Quốc hội trong việc đồng ý một thỏa thuận thân thiện với Saudi Arabia.
Các nhà lãnh đạo cấp cao của Mỹ, cũng như thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và nội các của ông, dường như cho rằng, không phe phái Palestine nào có thể làm chệch hướng tiến trình hoặc thu hút sự chú ý mới đến hoàn cảnh của người Palestine.
Xem thêm: Nguyên Nhân Xung đột Israel-Palestine?
Thật không may, những tin đồn về một thỏa thuận như vậy đã tạo cho Hamas một động lực mạnh mẽ để chứng tỏ thông điệp này sai lầm như thế nào.
Thừa nhận thực tế này không có cách nào biện minh cho những gì Hamas đã làm, đặc biệt là sự tàn bạo có chủ ý trong các cuộc tấn công của họ. Nó chỉ đơn giản xác nhận rằng, quyết định làm điều gì đó của phong trào và thời điểm thực hiện nó là một phản ứng đối với các sự kiện trong khu vực, mà phần lớn do những hoàn cảnh rất khác nhau gây ra.
Như tôi đã lưu ý trong bài viết trước, yếu tố thứ năm không phải là một sự kiện đơn lẻ, mà là sự bất lực thường xuyên hoặc không sẵn lòng của Hoa Kỳ trong việc đưa cái gọi là tiến trình hòa bình đến một kết thúc thành công.
Washington độc quyền lãnh đạo quá trình này sau khi ký kết Hiệp định Oslo (như tên gọi, điều này xảy ra thông qua trung gian của Na Uy), và nhiều nỗ lực của họ trong một thời gian dài đều không thành công.
Các cựu tổng thống Bill Clinton, George W. Bush và Barack Obama đã nhiều lần tuyên bố rằng Hoa Kỳ, với tư cách là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới và đang ở đỉnh cao của cái gọi là thời điểm đơn cực, cam kết thực hiện giải pháp hai nhà nước. Nhưng bây giờ một kết quả như vậy đã xa hơn bao giờ hết, và có lẽ điều đó là không thể.
Những yếu tố nền tảng này rất quan trọng vì tương lai của trật tự thế giới ngày nay đang bị đe dọa, và một số quốc gia hùng mạnh đang thách thức “trật tự dựa trên luật lệ” không nhất quán và tự do không ngừng nghỉ, mà Hoa Kỳ đã thúc đẩy và bảo vệ trong nhiều thập kỷ.
Xem thêm: “Trật Tự Thế Giới Mới”?
Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Iran và các nước khác đang công khai kêu gọi một thế giới đa cực, nơi quyền lực được phân bổ đồng đều hơn.
Họ muốn sống trong một thế giới mà Mỹ không còn đóng vai trò là một “cường quốc không thể thiếu”, dựa vào người khác để tuân theo các quy tắc của mình trong khi nước này vẫn có quyền coi thường họ, khi những quy tắc đó không phù hợp với họ.
Thật không may cho Hoa Kỳ, năm yếu tố mà tôi đã nêu tên và những hậu quả của chúng đối với khu vực đã củng cố vị thế của những người theo chủ nghĩa xét lại và mang lại cho họ những vũ khí mạnh mẽ (như Vladimir Putin đã không quên lưu ý).
Xem thêm – Putin: Palestine Cần Độc Lập Khỏi Sự Chiếm Đóng Của Israel
Họ có thể nói: “Hãy nhìn vào Trung Đông. Hoa Kỳ đã một mình cai trị khu vực này trong hơn 30 năm, và “sự lãnh đạo” của Mỹ đã đạt được những gì? Chúng ta đã chứng kiến những cuộc chiến tranh tàn khốc ở Iraq, Syria, Sudan và Yemen. Lebanon đang trên chặng đường cuối cùng, Libya đang trong tình trạng hỗn loạn và Ai Cập đang đối mặt với sự sụp đổ”.
“Các tổ chức khủng bố đang biến đổi, gieo rắc nỗi sợ hãi trên nhiều châu lục, còn Iran thì đang tiến gần hơn tới việc chế tạo một quả bom. Israel không có an ninh và người Palestine không có an ninh hay công lý”.
“Khi chúng ta để Washington nắm quyền quyết định, các bạn của tôi. Dù ý định của các nhà lãnh đạo Mỹ là gì, họ đã hết lần này đến lần khác chứng minh rằng, họ thiếu sự khôn ngoan và khách quan để đạt được những kết quả tích cực, ngay cả đối với chúng tôi”.
Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng một quan chức Trung Quốc nào đó nói thêm: “Hãy để tôi chỉ ra rằng, chúng tôi có mối quan hệ tốt với tất cả mọi người trong khu vực và mối quan tâm duy nhất của chúng tôi là khả năng tiếp cận đáng tin cậy các nguồn tài nguyên năng lượng. Vì vậy, chúng tôi cam kết duy trì hòa bình trên thế giới và khu vực. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã giúp Iran và Saudi Arabia khôi phục quan hệ vào năm 2022. Chẳng phải rõ ràng là thế giới sẽ được hưởng lợi nếu vai trò của Mỹ suy yếu và vai trò của chúng tôi được củng cố sao”?
Nếu coi việc chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu thì bạn nên xem xét các hành động trong quá khứ của Hoa Kỳ đã góp phần như thế nào vào cuộc khủng hoảng hiện tại, và những bóng tối trong quá khứ sẽ làm suy yếu vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới trong tương lai như thế nào.
Xem thêm: Vì Sao Trung Quốc Thay Đổi Đường Lối Ngoại Giao ‘Chiến Lang’?
Nhưng chúng ta phải trả cho nước Mỹ quyền lợi của nó. Tuần trước, Biden và nhóm chính sách đối ngoại của ông đã làm những gì? Cụ thể, họ đã cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng mà chính họ đã tham gia vào việc tạo ra nó.
Họ đang làm việc ngoài giờ để cố gắng hạn chế thiệt hại, ngăn chặn xung đột lan rộng, giảm bớt hậu quả chính trị trong nước và chấm dứt bạo lực (bắt chéo ngón tay). Tất cả chúng ta nên hy vọng rằng, những nỗ lực của họ sẽ mang lại kết quả.
Nhưng như tôi đã lưu ý hơn một năm trước, nhóm chính sách đối ngoại của Biden là những thợ máy giàu kinh nghiệm, nhưng không phải là kiến trúc sư.
Và đây là thời đại mà những vấn đề lớn nảy sinh với cấu trúc thể chế của chính trị thế giới đòi hỏi những cách tiếp cận mới.
Những người này khéo léo sử dụng các công cụ quyền lực và thẩm quyền của Mỹ, cũng như các cơ chế của chính phủ để giải quyết các vấn đề ngắn hạn.
Nhưng họ có những quan niệm lỗi thời về vai trò toàn cầu của Mỹ và cách thức đối phó với nhiều khách hàng Trung Đông của nước này.
Rõ ràng là họ hoàn toàn không hiểu gì về hướng đi mà Trung Đông đang hướng tới. Và ngay cả khi, ngày nay, họ khéo léo và hăng hái bịt kín vết thương cũ bằng thạch cao diệt khuẩn, họ cũng sẽ không thể chữa lành chúng. Nếu kết quả cuối cùng của nghi thức của Biden và Ngoại trưởng Blinken hôm nay chỉ đơn giản là quay trở lại tình hình trước ngày 7 tháng 10, tôi sợ phần còn lại của thế giới sẽ nhìn họ, lắc đầu không tin và không tán thành, và kết luận rằng, đã đến lúc phải làm như vậy, tìm kiếm những cách tiếp cận khác.